Xem Nhiều 4/2023 #️ Cuộc Kháng Chiến Bắt Đầu (23/10/1945 # Top 11 Trend | Ruybangxanh.org

Xem Nhiều 4/2023 # Cuộc Kháng Chiến Bắt Đầu (23/10/1945 # Top 11 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Cuộc Kháng Chiến Bắt Đầu (23/10/1945 mới nhất trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

CHƯƠNG VI

CUỘC KHÁNG CHIẾN BẮT ĐẦU (23/10/1945 – 12/1946) 

MẶT TRẬN NHA TRANG, MỘT TRONG NHỮNG TIỀN TUYẾN CỦA CẢ NƯỚC 

Cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Sài Gòn- Chợ Lớn bao vây quân Anh- Pháp, làm cho chúng ngày càng lâm vào tình trạng khốn quẫn. Đầu tháng 10-1945, chúng buộc phải tìm cách điều đình với ta. Uỷ ban nhân dân Nam bộ tỏ rõ thiện chí chấp nhận yêu cầu của chúng. Ngày 30-9-1945 hai bên tạm ngưng bắn, nhưng thực dân Pháp cực kỳ ngoan cố và hiếu chiến, chúng lợi dụng hòa hoãn để chờ viện binh.

Trong tháng 10, có quân tăng viện từ chính quốc sang nên quân Pháp đã phá vỡ vòng vây Sài Gòn – Chợ Lớn, mở rộng chiếm đóng các tỉnh Nam bộ và chuẩn bị tiến công các tỉnh Nam Trung bộ.

Đầu tháng 10-1945, thiết giáp hạm Risơliơ (Richelieu) tới vùng biển Khánh Hòa. Ngày 6-10 và 12-10, một nghìn quân Pháp từ chiến hạm Risơliơ đổ bộ lên bãi biển Nha Trang trước Hotel Beau Rivage (nay là khu vực khách sạn Hải Yến). Cùng lúc quân Pháp trong thị xã bung ra chiếm một vài nơi. Một loạt vị trí ven biển từ Cầu Đá tới Lầu Ông Tư (nay là nhà nghỉ Bộ Nội vụ), nhà ga, nhà đèn, máy nước đều do quân Pháp đóng giữ. Sân bay Nha Trang được tăng cường một số máy bay. Trên mặt biển có các loại tàu chiến nhỏ, ca nô tuần tiễu từ Cầu Đá tới cửa sông Cái. Ngoài khơi, chiến hạm Risơliơ kiểm soát toàn bộ mặt biển từ cảng Cam Ranh ra tới Vũng Rô, sẵn sàng dùng pháo lớn chi viện cho bộ binh ở đất liền.

Quân Nhật vẫn đóng tại các vị trí cũ như khu vực Grand Hotel (khách sạn 44 Trần Phú), trại lính khố đỏ, sân bay, kho bạc, kho vũ khí Bình Tân.

Tình hình Nha Trang và Nam Trung bộ được Xứ ủy và Uỷ ban nhân dân Trung bộ quan tâm theo dõi. Xứ ủy đã có nhận định và chỉ thị: Thực dân Pháp xâm chiếm Nha Trang là uy hiếp trực tiếp con đường chi viện của các lực lượng miền Bắc, miền Trung vào Nam bộ. Cho nên vây chặt giặc Pháp lại trong Nha Trang để giữ được con đường chi viện cho Nam bộ là một yêu cầu bức thiết mà Trung ương đã đặt ra cho Đảng bộ và chính quyền cách mạng miền Trung, trực tiếp là Đảng bộ và quân, dân Nha Trang – Khánh Hòa. Cuối tháng 9-1945, Xứ ủy và Uỷ ban nhân dân Trung bộ mở Hội nghị quân sự do đồng chí Nguyễn Chánh, ủy viên trưởng quốc phòng chủ trì. Hội nghị đã quyết định một số nội dung, gồm:

– Giữ vững giao thông thông suốt để chi viện cho Nam bộ kháng chiến.

– Huy động quần chúng tuần hành thị uy, chống quân Pháp xâm lược, đồng thời tiến công uy hiếp quân Nhật bằng quân sự và binh vận.

– Điều động lực lượng quân sự từ Bắc và Trung Trung bộ vào tăng cường cho các tỉnh cực Nam Trung bộ.

– Lập Uỷ ban quân chính Nam Trung bộ đóng tại Khánh Hòa để chỉ huy cuộc chiến tại cực Nam Trung bộ do đồng chí Phạm Kiệt làm trưởng ban và đồng chí Trương Quang Giao làm chính trị ủy viên.

 Căn cứ chủ trương của Xứ ủy Trung kỳ và tình hình thực tế giữa ta và địch lúc bấy giờ, Uỷ ban quân chính Nam – Trung bộ chủ trương: Tiếp tục đánh và làm tiêu hao sinh lực địch, ngăn chặn từng bước và cố giữ cho được một vùng tự do để làm căn cứ kháng chiến lâu dài.

Để sẵn sàng đánh địch ở thế chủ động tại nhiều hướng, Uỷ ban quân chính cũng đã triển khai kế hoạch phá một số cầu và một số đường, đồng thời bố trí lực lượng và xây dựng trận địa tại các tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng, Đắc Lắc…

Về chỉ đạo quân sự, Chính phủ đã có chủ trương xây dựng nhiều chiến khu trong cả nước. Nam Trung bộ có hai khu: khu V và khu VI. Khánh Hòa là tỉnh thuộc khu VI.

Trước tình hình trên, quân và dân Khánh Hòa bước vào cuộc chiến đấu với một khí thế sôi nổi. Ban chỉ huy mặt trận được thành lập gồm đồng chí Trần Công Khanh làm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Thế Lâm làm chỉ huy phó, đồng chí Hà Văn Lâu làm tham mưu trưởng và đồng chí Nguyễn Mô (tức Bùi Định) làm chính trị viên.

Trong thời gian này, đơn vị giải phóng quân Lê Trung Đình (Quảng Ngãi) gồm có 3 đại đội do đồng chí Lê Kích chỉ huy tăng viện cho Nha Trang. Các đại đội được bố trí ở phía bắc sông Cái, khu Chợ Mới và khu vực Nhà Đoan. Một khẩu đội pháo 75 ly đóng tại đồi La San (nay là Trường Đại học Thủy Sản), một điểm cao sát bờ biển phía bắc thị xã.

Cuối tháng 10-1945, Hội nghị đại biểu Việt Minh toàn tỉnh khai mạc. Hội nghị vạch ra nhiệm vụ tiếp tục động viên nhân, tài, vật, lực phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Pháp, giữ vững thành quả của chính quyền cách mạng. Hội nghị bầu đồng chí Hoàng Hữu Chấp làm chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh. Ban chấp hành các hội nông dân, công nhân, phụ nữ và thanh niên cứu quốc được chấn chỉnh. Sau cuộc họp này, các đồng chí Nguyễn Duy Tính (Chủ tịch Uỷ ban cách mạng tỉnh), Đào Thiện Thi, Trần Đăng Khoa, Trần Việt Châu được rút về Trung bộ và Trung ương. Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh được sắp xếp lại gồm: Tôn Thất Vỹ chủ tịch, Phạm Cự Hải phó chủ tịch và một số ủy viên phụ trách một số ngành cũng được chấn chỉnh, đồng chí Phan Văn Nhượng phụ trách ngành công an.

Nhiều cuộc họp giữa các đồng chí lãnh đạo chính quyền tỉnh, mặt trận Việt Minh và chỉ huy quân sự thống nhất nhận định:

– Quân Pháp bộc lộ quá rõ ý đồ dùng lực lượng quân sự từng bước đẩy ta ra, chiếm thị xã.

– Trong điều kiện so sánh lực lượng lúc này ta không đủ khả năng tổ chức đánh lớn để đẩy quân Pháp ra khỏi những vị trí chúng đã lấn chiếm, nhưng ta cũng không để cho quân Pháp tự do hành động.

Ta chủ trương dùng lực lượng bộ đội tại chỗ chủ động tấn công một số mục tiêu được coi là quan trọng, mà lực lượng địch ở đó tương đối mỏng, ta sẽ thâm nhập, như nhà ga, nhà đèn, khu kho Bình Tân, nhằm tiêu diệt một số sinh lực địch, phá hủy cơ sở vật chất. Sau đó, rút ra cùng lực lượng bên ngoài thực hiện nhiệm vụ chủ yếu bao vây chặt quân Pháp trong thị xã không cho chúng mở rộng diện chiếm đóng; đồng thời kiên quyết giữ vững giao thông Bắc – Nam, bảo đảm thông suốt con đường chi viện cho Nam bộ.

Ngày được chọn nổ súng tấn công là rạng sáng 23-10, đúng một tháng sau ngày nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Nhân dân Nha Trang chấp hành tốt chủ trương của tỉnh. Số đông người già và trẻ em tản cư ra vùng nông thôn Vĩnh Xương, Diên Khánh, số ở lại thị xã thực hiện bất hợp tác với giặc, biểu tình thị uy đặt chướng ngại vật trên đường phố, giúp đỡ bộ đội đục tường thông qua từng căn nhà, tạo thành hành lang vận động khi tác chiến. Thanh niên nam nữ làm nhiệm vụ cứu thương, tiếp tế và cùng bộ đội chiến đấu.

Bộ đội của thị xã Nha Trang được giao nhiệm vụ tiến công các mục tiêu đã định. Bộ đội chủ lực tỉnh và bộ đội Nam tiến bố trí sẵn ven bờ sông, đường sắt, các điểm cao mặt bắc và tây thị xã. Lực lượng dự bị đứng chân tại Ngọc Hội, Phú Nông, Xuân Lạc, sẵn sàng chi viện. Tất cả lực lượng ta sẵn sàng chờ lệnh nổ súng tấn công.

3 giờ sáng ngày 23 tháng 10 năm 1945 lệnh tấn công được phát ra từ một khối thuốc nổ lớn đặt bên ngoài hầm xe lửa số 1. Một loạt các vị trí địch bị lực lượng ta tấn công: khu vực nhà ga xe lửa, nhà đèn, khu Bình Tân…

Ở khu vực nhà ga, sau vài phút nổ súng ta đã làm chủ trận địa, tiêu diệt toàn bộ quân địch, thu vũ khí. Tại đây, đồng chí Võ Văn Ký, người chỉ huy của lực lượng tự vệ Nha Trang đã chiến đấu dũng cảm và hy sinh.

Lực lượng ta làm chủ khu vực nhà đèn gần một ngày, phá hủy một số máy móc.

Ở khu vực kho vũ khí Bình Tân, do không cân sức và thiếu kinh nghiệm chiến đấu, bộ đội ta không chiếm được kho, phải rút lên Đồng Bò trước sự phản kích mạnh của địch.

Quân Pháp có lực lượng lớn và được quân Nhật trợ chiến chiếm các điểm cao đồi Sinh Trung, đồi Trại Thủy, lập trận địa pháo khống chế khu vực nội thành và vùng xung quanh thị xã.

Cuộc tấn công sớm ngày 23-10-1945 có sự chuẩn bị chu đáo, mở đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Khánh Hòa và Nam Trung bộ.

Cuộc kháng chiến của Khánh Hòa trong ngày đầu tuy thắng lợi quân sự chưa nhiều, song có giá trị tinh thần rất to lớn, lần nữa làm cho quần chúng thấy được hành động xâm lược dã man, tàn bạo của thực dân Pháp và dấy lên lòng căm thù sâu sắc. Qua chiến đấu, cán bộ lãnh đạo và lực lượng vũ trang ta thấy quân xâm lược Pháp không có gì ghê gớm như chúng tuyên truyền. 

101 NGÀY ĐÊM BAO VÂY QUÂN PHÁP TẠI NHA TRANG (23/10/1945 – 1/2/1946)

Sau khi tiến công một số vị trí địch, các lực lượng trong thị xã rút ra, phối hợp lực lượng bên ngoài lập hệ thống phòng tuyến bao vây quân Pháp. Phòng tuyến Chợ Mới gồm phòng tuyến phía bắc thị xã khu vực đồi La San, cầu Xóm Bóng, Tháp Bà lên đến Cầu Sắt hầm xe lửa số 1; phòng tuyến phía tây từ bến đò Kim Bồng phía nam bờ sông Cái theo dọc đường sắt qua quốc lộ 1 khu vực Chợ Mới, lên phía Tây- nam qua vùng Thái Thông, Thủy Tú, tới dãy Đồng Bò.

Phòng tuyến Chợ Mới là trận địa phòng ngự gồm hệ thống giao thông hào vận động và công sự chiến đấu có nắp bằng thân dừa chống pháo, cối của địch từ các điểm cao trong thị xã bắn xuống. Ngoài ra, bộ đội còn lợi dụng địa hình dọc đường sắt, dọc theo các đám dừa nước ven sông để chiến đấu.

Trong vòng một tháng, các lực lượng ta trên phòng tuyến Chợ Mới đánh lui nhiều trận nống ra của quân Pháp. 4 giờ sáng ngày 17-11, ta bẻ gãy cuộc tiến công quy mô lớn của quân Pháp, diệt hàng chục tên tại khu vực Bờrôten1. Bên ta đồng chí Nguyễn Dậu đại đội phó bộ đội Nha Trang là xạ thủ bắn VB2 nổi tiếng đã hy sinh anh dũng.

Đường xe lửa vẫn do ta kiểm soát, nhưng đoạn đường từ đèo Rù Rì qua Nha Trang vào Suối Dầu khoảng 20 km không thể dùng đầu máy kéo cả đoàn tàu vì quá gần vị trí địch. Để đảm bảo an toàn, đêm đêm từng đoàn xe goòng chở đầy vũ khí, thuốc men, quân trang, quân dụng được bộ đội, du kích và nhân dân đẩy từ hầm Rù Rì vào tới ga Suối Dầu, từ đó được đầu máy kéo chạy tiếp vào Nam bộ.

Bưu điện Nha Trang tổ chức xây dựng đường dây, các trạm điện thoại ở Phú Vinh, Lương Sơn, Hòa Tân, đảm bảo thông tin liên lạc giữa Sở chỉ huy mặt trận Nha Trang với Uỷ ban Quân chính Nam Trung bộ có chỉ huy sở đóng tại thôn Xuân Hòa nay thuộc xã Ninh Phụng (huyện Ninh Hòa) và giữa Uỷ ban Quân chính với Tháp Chàm (Ninh Thuận) và Nam bộ.

Công an xung phong, tự vệ thành liên tiếp tổ chức những trận tấn công các mục tiêu và vị trí trọng yếu của quân Pháp. Trận địa pháo 75 mm trên đồi La San nhiều lần nã đạn vào vị trí địch trong thị xã. Ngày 26-10 pháo ta bắn cháy một tàu vận tải nhỏ của Pháp trước khách sạn Bôriva. Nhiều toán lính địch bị tự vệ ta diệt trên đường phố, một số tên tay sai Pháp bị trừng trị.

Mục đích của quân Pháp chiếm Nha Trang làm bàn đạp mở rộng diện chiếm đóng không thể thực hiện được. Âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của quân Pháp bị sa lầy tại Khánh Hòa. Chúng tăng cường lực lượng để mở các cuộc tấn công mới.

Trong hai ngày 22 và 23 tháng 11, lực lượng ta và Pháp đọ sức quyết liệt tại khu vực từ Chợ Mới đến chùa Bà Nghè – Ngọc Hội, sau đó ta rút khỏi phòng tuyến Chợ Mới đưa toàn bộ lực lượng lui về lập phòng tuyến Cây Da- Quán Giếng cách thị xã Nha Trang 6 km.

Trong khi Nha Trang đang chiến đấu, các đơn vị võ trang tập trung và bán tập trung được giao nhiệm vụ cụ thể. Những nơi trực tiếp có chiến sự thì dân quân phục vụ tiền tuyến: Tải thương, tiếp tế lương thực, liên lạc dẫn đường và trực tiếp chiến đấu cùng bộ đội. Các huyện Vạn Ninh, Ninh Hòa và Cam Lâm (Cam Ranh) tổ chức canh gác, xây dựng công sự, lập các đội vận tải, phục vụ mặt trận và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Một số đơn vị dân quân tập trung của Ninh Hòa được tăng cường cho phòng tuyến phía bắc mặt trận Nha Trang. Những điểm xung yếu như cầu, cống dọc quốc lộ 21, quốc lộ 1, hầm xe lửa đèo Cổ Mã được bộ đội và dân quân du kích các địa phương trong tỉnh chốt giữ.

Lực lượng vũ trang tham gia chiến đấu ở mặt trận Nha Trang, gồm có tiểu đoàn tự vệ địa phương và các đơn vị Nam tiến: Đại đội Lê Trung Đình (Quảng Ngãi) – đơn vị đầu tiên tới Nha Trang, sau đó là đơn vị Thuận Hóa do đồng chí Nguyễn Thế Lâm (tức Nguyễn Kén) chỉ huy đóng tại Thái Thông, Thủy Tú, đơn vị bộ đội Nghệ Tĩnh đứng chân tại Lư Cấm. Đơn vị bộ đội ở Nam bộ ra gồm hầu hết là anh em công nhân đồn điền cao su do đồng chí Nguyễn Văn Vĩnh chỉ huy đứng chân tại tây- nam thị xã.

Cuối tháng 12-1945, đơn vị Nam tiến Bắc-Bắc do đồng chí Lư Giang chỉ huy, đơn vị Quảng Yên do đồng chí Lê Hữu Quán chỉ huy vào đến Khánh Hòa. Đơn vị Bắc-Bắc tham gia mặt trận Nha Trang tại phòng tuyến Cây Da – Quán Giếng, còn đơn vị Quảng Yên lên chi viện cho mặt trận Ban Mê Thuột.

Các đội công an xung phong, tự vệ mật hoạt động bên trong thị xã, nhiều lần đột nhập doanh trại địch ở Cầu Đá, nhà ga, nhà đèn, Xóm Bóng, Cầu Dứa, Phú Vinh. Đặc biệt một tổ tự vệ mật đột nhập sân bay đốt cháy 2 máy bay địch. Đây là những chiếc máy bay địch bị phá hủy đầu tiên tại Nha Trang và cũng là chiến công đốt cháy máy bay đầu tiên từ sau ngày Nam bộ kháng chiến. Trận địa pháo đặt trên đồi La San nhiều lần nã đạn vào các vị trí của địch trong thị xã. Ngày 4-1-1946, một tàu thủy của địch đang đậu ở cảng Cầu Đá bị bốc cháy.

Trong quá trình chiến đấu, các Nhân dân và lực lượng vũ trang luôn đoàn kết gắn bó, vừa đánh giặc, vừa xây dựng củng cố lực lượng, bảo đảm cung cấp vũ khí, lương thực, cứu chữa thương bệnh binh, tạo mọi điều kiện cho tiền tuyến đánh thắng. Công tác xây dựng hậu phương làm cơ sở cho kháng chiến lâu dài được chú ý. Lúc này Diên Khánh là hậu phương trực tiếp của mặt trận, các cơ quan đầu não của tỉnh chuyển về khu vực Thành. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đóng ở thôn Trường Lạc, có tổ chức hai lớp huấn luyện thanh niên Trần Qúi Cáp, mỗi lớp khoảng 150 người. Cơ quan Đảng, Mặt trận Việt Minh đóng tại thị trấn và cơ quan quân sự đóng trong Thành Diên Khánh. Mặc dù khu vực chiến sự diễn ra cách Thành chỉ vài cây số, nhưng mọi sinh hoạt ở đây gần như bình thường, nhân dân vẫn tích cực sản xuất phục vụ chiến đấu sôi nổi. Giữa tháng 12-1945, Hội nghị nông dân toàn tỉnh tổ chức tại trường tiểu học Pháp – Việt (Diên Khánh) để bàn việc thực hiện chính sách giảm tô, chia công điền, công thổ cho nông dân. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh sẵn sàng đóng góp với tinh thần tự giác cao. Nhiều điền chủ đưa trâu, bò, hàng tấn lúa gạo góp vào qũy nuôi quân. Tầng lớp lao động tuy đời sống còn nhiều khó khăn nhưng rất hăng hái thực hiện “hũ gạo nuôi quân” dành lương thực tiếp tế cho chiến sĩ ngoài mặt trận. Nhân dân Ninh Hòa, Vạn Ninh vừa đảm bảo đủ lương thực nuôi quân tại chỗ đang tăng nhanh, vừa đáp ứng các mặt cho mặt trận Nha Trang, mặt trận Ban Mê Thuột.

Diễn biến chiến trường ở Nam bộ, Nam Trung bộ và ở mặt trận Nha Trang được Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đặc biệt quan tâm theo dõi.

Cuối tháng 12-1945, Hồ Chủ tịch cử phái đoàn Chính phủ do đồng chí Lê Văn Hiến dẫn đầu tới một số tỉnh Nam Trung bộ tìm hiểu tình hình, phổ biến một số chính sách, chủ trương của Chính phủ và mang thư của Bác Hồ “Gửi các chiến sĩ cùng đồng bào Nam bộ và phía Nam Trung bộ. Thư có đoạn viết: “Từ ba tháng nay các anh chị em đã đổ xương máu để giữ từng tấc đất của Tổ quốc. Tôi cũng như bao nhiêu đồng bào ở Bắc bộ và phía Bắc Trung bộ đã bao nhiều lần tức giận khi nghe bọn thực dân Pháp chà đạp lên miếng đất của ông cha ta, giết hại nòi giống ta; đã bao nhiêu lần phấn khởi khi nghe những chiến công oanh liệt do những vị vô danh và hữu danh, anh hùng của dân tộc tạo nên; đã bao nhiêu lần hồi hộp, có thể khóc được trước những gương vô cùng hy sinh, vô cùng can đảm của những người con yêu Tổ quốc. Do đó, tôi tin chắc rằng: Với một quốc gia có những đứa con hy sinh như thế, anh hùng như thế, đã có một khối toàn dân đoàn kết như thế, nước ta nhất định không thể bị mất lại một lần nữa”3.

Đến Khánh Hòa, sau khi làm việc với các đồng chí trong Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời và Tư lệnh mặt trận Nha Trang, đồng chí Lê Văn Hiến đi thăm một số đơn vị đang chiến đấu trên phòng tuyến, thăm bệnh viện tỉnh đóng trong nhà dân…, nói chuyện và truyền đạt Thư của Hồ Chủ tịch và của Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp, cổ vũ động viên chiến sĩ. Ngày 31-12 tại Thành (Diên Khánh) có cuộc gặp giữa Phái viên Chính phủ với đồng bào địa phương. Đồng chí Phái viên động viên nhân dân hăng hái tham gia cuộc Tổng tuyển cử và hết sức cảnh giác, phòng quân Pháp đánh phá.

Mặc dù phải lo chiến đấu chống giặc, công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử được Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân đặc biệt chú ý. Ban tổ chức cuộc bầu cử bố trí các địa điểm thuận lợi để nhân dân đi bỏ phiếu. Địa điểm nào cũng có hầm hố, trạm cứu thương, súng phòng không trực chiến.

Ngày 6-1-1946, nhân dân Khánh Hòa cùng nhân dân cả nước lần đầu tiên nô nức đi làm nghĩa vụ thiêng liêng của người công dân, tới các địa điểm bỏ phiếu để bầu những đại biểu của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đồng bào, chiến sĩ khu vực mặt trận Vĩnh Xương, Diên Khánh bất chấp bom đạn của kẻ thù vẫn đi bỏ phiếu đông đủ. Máy bay Pháp quần lượn nhiều giờ tại khu vực bỏ phiếu, ném hàng chục quả bom. Nhưng nhờ có hệ thống hầm hố phòng tránh tốt nên ta đã hạn chế được thiệt hại. Đồng chí phái viên Chính phủ gửi về Trung ương bản tường trình về ngày Tổng tuyển cử ở Khánh Hòa như sau:

“Trong ngày Tổng tuyển cử, thực dân Pháp đã dã man dùng máy bay ném hàng chục quả bom, bom lửa và bom nổ khủng bố dân chúng. Hành động vô nhân đạo ấy đã làm cho thường dân chết 4 người trong số đó có 1 trẻ em 2 tuổi, 12 người bị thương nặng. Số người bị chết có thể tăng lên. Trong khoảng 1 tiếng rưỡi, chúng dùng máy bay qua lại trên Thành Diên Khánh để khủng bố dân chúng. Dân chúng bình tĩnh tiếp tục bỏ phiếu làm tròn nghĩa vụ công dân”.

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, kết quả cử tri trong tỉnh đã bầu 3 ông: Nguyễn Văn Chi, Tôn Thất Vỹ, Đào Thiện Thi4 là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa 1 của tỉnh Khánh Hòa.

Cuối tháng giêng năm 1946, đồng chí Võ Nguyên Giáp vào kiểm tra tình hình mặt trận miền Nam. Ngày 27-1-1946 đồng chí tới thị sát mặt trận Nha Trang, cùng đi có đồng chí Nguyễn Sơn, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam. Đồng chí Võ Nguyên Giáp có cuộc họp mặt với các cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền, mặt trận Việt Minh, chỉ huy quân sự tỉnh tại Thành Diên Khánh. Đồng chí trân trọng chuyển lời thăm hỏi và khen ngợi của Bác Hồ đến đồng bào chiến sĩ mặt trận Nha Trang. Sau khi nghe các đồng chí lãnh đạo tỉnh báo cáo, đồng chí đã nhận định tình hình như sau: “Với biết bao khó khăn của ngày đầu kháng chiến, quân và dân Nha Trang- Khánh Hòa đã trụ bám vững chãi một thời gian dài trên tuyến lửa, tiêu diệt và tiêu hao giữ chân quân Pháp, thật sự làm thất bại một bước âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của địch…”. “Cho đến lúc này giao thông của ta từ Bắc vào Nam vẫn thông suốt, để Trung ương vẫn tiếp tục vận chuyển vũ khí, bộ đội vào Nam bộ tạo điều kiện cho hậu phương chuẩn bị kháng chiến. Ở mặt trận này đang có nhiều đơn vị vệ quốc quân, dân quân tự vệ, có những đơn vị địa phương, có những đơn vị Nam tiến từ phía Bắc vào, thế mà các đơn vị giữ được mối đoàn kết hợp đồng tác chiến, đoàn kết quân dân, như vậy là rất tốt. Các lực lượng vũ trang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chặn địch, bảo vệ cho đồng bào thực hiện Tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 thành công”.5

Về phương hướng kháng chiến của Khánh Hòa trong thời gian tới, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã vạch ra một số nét tổng quát: “Từ thực tiễn mặt trận Nha Trang, có thể rút ra những bài học bổ ích. Rõ ràng khi địch tiến công ào ạt, lực lượng chúng còn hạn chế, việc lập phòng tuyến vừa đánh, vừa chặn địch với quyết tâm cao là tốt. Song, sắp tới đây, thực dân Pháp sẽ tăng viện, mở cuộc tấn công mới. Ta cần thấy trước và điều chỉnh ngay sự bố trí và cách tác chiến, không thể giữ mãi các phòng tuyến hiện nay mà phải chủ động rút ra một bộ phận chủ lực, chỉ để một bộ phận nhỏ bám sát địch, sẽ tổ chức những đơn vị cơ động đánh địch bằng các hình thức tập kích, phục kích tiêu hao sinh lực địch, cho biệt động hoặc du kích thâm nhập đánh phá, toàn dân đánh giặc, mọi vùng, mọi làng đều thành làng xã chiến đấu. Đồng thời tỉnh nên chủ động xây dựng căn cứ kháng chiến ở vùng Đồng Trăng”.6

Sau khi thị sát mặt trận Nha Trang về, đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo với Bác, Thường vụ Trung ương và Chính phủ tình hình đang diễn ra tại mặt trận Nha Trang. Bác đã nhận xét: “Chuyển hướng tác chiến tại mặt trận Nha Trang như vậy là đúng, phù hợp với tình hình đang diễn ra tại chiến trường; đã đến lúc bộ đội, tự vệ ta tại Nha Trang nhanh chóng chuyển sang chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân”.7 

MẶT TRẬN NHA TRANG VỠ - CHIẾN TRANH LAN RỘNG TOÀN TỈNH

Vào cuối tháng 1-1946, Bộ chỉ huy quân sự Pháp ở Đông Dương huy động 15.000 quân gồm lực lượng của binh đoàn thiết giáp Mát-xuy (Massu), trung đoàn bộ binh thuộc địa Ma-rốc (M.L.C.M), 2 tiểu đoàn của trung đoàn bộ binh thuộc địa số 21 và 23 (21 è, 23 è R.I.C), 1 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn viễn chinh phương đông (B.M.E.O) phối hợp với lực lượng hải quân, không quân mở cuộc hành quân quy mô có tên là “Bò tót” (Gaur) tấn công các tỉnh Đông Nam bộ, Nam Trung bộ, giải tỏa Nha Trang bằng hai cánh quân.

Cánh thứ nhất, theo đường 20 tiến vào thị xã Đà Lạt ngày 27-1 và sau đó theo đường 11 đánh chiếm thị xã Phan Rang ngày 28-1. Từ thị xã Phan Rang, một lực lượng lớn của địch gồm nhiều xe chở lính có thiết giáp mở đường, một số xe đi đầu cắm cờ đỏ sao vàng chở bọn Nhật cải trang làm bộ đội vệ quốc đoàn kéo ra Ba Ngòi. Nhân dân hai bên đường tưởng là bộ đội ta, chạy ra chào đón bị quân Pháp nổ súng giết hại một số người. Quân Pháp tới Ba Ngòi, để lại một bộ phận nhỏ chiếm đóng Đá Bạc phối hợp với quân đổ bộ từ chiến hạm lên chiếm đảo Bình Ba và bán đảo Cam Ranh, còn đại bộ phận tiếp tục tiến ra Hòa Tân.

Cũng trong ngày 27-1-1946, cánh thứ hai với lực lượng lớn có xe thiết giáp mở đường từ thị xã Ban Mê Thuột theo đường 21 (nay là đường 26) tiến xuống Ninh Hòa. Dọc đường hành quân, chúng bị các đơn vị chủ lực Nam tiến, dân quân Ninh Hòa, Vạn Ninh chi viện cho mặt trận Ban Mê Thuột và dân quân du kích địa phương chặn đánh tại kilômét số 24, 59, 62 ở thị trấn Mađrắc, ở đèo Phượng Hoàng. Đến 4 giờ chiều ngày 29-18 địch chiếm được thị trấn Ninh Hòa, hình thành gọng kìm uy hiếp thị xã Nha Trang từ hai phía: Từ Cam Ranh ra, từ Ninh Hòa vào.

Phối hợp với đồng bọn trong cuộc hành quân, quân Pháp tại thị xã Nha Trang được tăng viện, tập trung lực lượng cố đẩy ta ra khỏi ga Phú Vinh- tuyến tiền tiêu của phòng tuyến Cây Da – Quán Giếng. Sau mấy ngày chiến đấu giằng co quyết liệt, ta rút khỏi Phú Vinh. Quân Pháp gấp rút xây dựng tại ga Phú Vinh thành một chi khu kiểm soát khu vực Vĩnh Xương và tạo bàn đạp tiến công lên vùng Diên Khánh. Pháo của địch từ chiến hạm Risơliơ bắn hàng ngàn quả đạn vào các vị trí ta trên phòng tuyến và dọc quốc lộ số 1 gây nhiều thiệt hại về người và tài sản của nhân dân.

Ở phía Bắc, cũng chiều ngày 29-1, quân Pháp sau khi để lại một lực lượng ở thị trấn Ninh Hòa, còn tập trung phần lớn lực lượng gồm 20 xe cơ giới có 3 xe bọc thép tiến vào Nha Trang. Trên đường hành quân, xe tăng địch bắn phá thôn xóm hai bên quốc lộ 1. Lợi dụng trời tối, một số đơn vị dân quân tập trung Ninh Hòa và dân quân du kích đánh địch ở một số điểm từ đèo Rọ Tượng tới Lương Sơn, làm cho quân Pháp không dám vượt đèo Rù Rì vào ban đêm, phải tập kết lực lượng phía bắc đèo Rù Rì. Rạng sáng hôm sau quân Pháp vượt đèo, thọc sau lưng phòng tuyến phía bắc thị xã, gặp một phân đội của đại đội Võ Quốc Thụ từ Ninh Hòa tăng cường cho mặt trận Nha Trang đang chốt tại khu vực Xóm Bóng, Tháp Bà. Bộ đội ta nổ súng, nhưng lực lượng quá chênh lệch, ta phải rút theo tả ngạn sông Cái lên hầm số 1 gần Cầu Sắt – Ngọc Hội. Quân Pháp chiếm phòng tuyến đồi La San- cầu Xóm Bóng để tiến vào Nha Trang.

Cũng ngay trong tối 29-1, quân Pháp từ Ninh Hòa tiến ra phía bắc chiếm thị trấn Giã, từ đây chúng hành quân ra Tu Bông. Một tiểu đội bộ đội địa phương Vạn Ninh chặn đánh quân địch tại hầm xe lửa Ninh Mã. Toàn bộ tiểu đội đã hy sinh anh dũng trong đó có đồng chí Trần Tạo9 chỉ huy trưởng đại đội. Quân Pháp không đóng quân lại mà rút ngay về thị trấn Giã. Một cánh quân khác của địch theo tỉnh lộ số 7 (nay là đường số 2), kéo xuống càn quét bắn phá khu vực Hòn Khói, sau đó rút về thị trấn Ninh Hòa.

Trước sức ép từ 2 phía, sáng ngày 1-2-1946, các đơn vị đóng ở phòng tuyến Cây Da- Quán Giếng rút qua bắc sông Cái về Tứ thôn Đại Điền.

Chiều 1-2 tại Cống Ba- Cầu Lùng, quân Pháp cắm cờ đỏ sao vàng trên xe, nghi binh vượt qua các vị trí ta, phối hợp với lực lượng từ Nha Trang lên, tấn công Thành. Lực lượng ta bảo vệ Thành đã chiến đấu quyết liệt tại thị trấn và khu vực cửa Nam, diệt nhiều tên địch, bảo vệ để các cơ quan đầu não trong Thành kịp rút lên Đồng Trăng an toàn. Mãi đến 10 giờ tối ngày 30 Tết Bính Tuất (tức 1-2-1946) địch mới chiếm được Thành. Các cơ quan đảng, đoàn thể và mặt trận ở phía Đại Điền rút về Đồng Trăng.

Sáng ngày 2-2-1946, từ Thành quân Pháp mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Đồng Trăng và qua bắc sông Cái khu vực bến đò Thành, nhằm tiêu diệt các cơ quan đầu não của tỉnh và lực lượng vũ trang ta. Hỏa lực của máy bay và đại bác từ các trận địa pháo ở các điểm cao quanh thị xã Nha Trang và tàu Risơliơ bắn yểm trợ cho bộ binh tấn công. Bộ đội Nam tiến Bắc-Bắc và bộ đội địa phương đánh quân địch tại Cầu Đôi, và bến đò Thành. Mặc dù gặp lúc trời mưa lớn, công sự ngập nước, phải chiến đấu dưới tầm bom đạn ác liệt nhưng bộ đội ta không nao núng, bình tĩnh, dũng cảm đẩy lùi tất cả các đợt tấn công ào ạt của quân Pháp, buộc chúng phải lui về Thành.

Các đơn vị tự vệ Nha Trang, Vĩnh Xương rút lên vùng núi Chín Khúc, xây dựng cơ sở đứng chân tại núi Đồng Bò. Sở chỉ huy mặt trận cùng các cơ quan đảng, chính quyền, mặt trận rút lên vùng Đồng Trăng- Đất Sét.

Cuộc chiến đấu bao vây quân Pháp 101 đêm tại mặt trận Nha Trang chấm dứt. Quân và dân Khánh Hòa được sự chi viện của cả nước hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Trung ương giao phó. Nhân ngày kỷ niệm quân đội ta tròn 1 tuổi, ngày 22-12-1945, Bác Hồ gửi thư khen các chiến sĩ mặt trận miền Nam, các chiến sĩ mặt trận Nha Trang:

“Chính phủ dân chủ cộng hòa Việt Nam rất khen ngợi chiến sĩ các mặt trận miền Nam, đặc biệt là chiến sĩ ở Nha Trang và Trà Vinh đã làm gương anh dũng cho toàn quốc.

Tổ quốc biết ơn các bạn.

Toàn thể đồng bào noi gương các bạn”.

Đây là phần thưởng quý giá, sự động viên to lớn, niềm tự hào không chỉ riêng quân dân Nha Trang, mà còn là của toàn thể Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. 

ĐẤU TRANH THI HÀNH HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ 6-3

Sau các cuộc hành quân ào ạt bằng xe cơ giới quân Pháp đã chiếm được các thị trấn, phủ lỵ, huyện lỵ trong tỉnh, kiểm soát các đường giao thông chiến lược. Tại những nơi này địch lo dựng đồn, trại đóng quân, xây lô cốt, đào công sự, rải quân đóng chốt một số cầu, cống trên quốc lộ số 1 từ Giã vào Ba Ngòi và đường 21 từ Ninh Hòa đi Ban Mê Thuột. Tuy vậy, diện kiểm soát của quân Pháp còn rất hạn chế, không ngoài các trục giao thông và quanh các vị trí chiếm đóng.

Có thể nói đây là Hội nghị quân, dân, chính, đảng đầu tiên của tỉnh trong kháng chiến. Hội nghị đã đề cập đến một số vấn đề lớn dựa theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng do đồng chí Võ Nguyên Giáp vào truyền đạt và góp ý kiến cho tỉnh trước khi mặt trận Nha Trang vỡ. Tuy vậy, về nội dung và phương thức hoạt động cụ thể thì còn lúng túng, chưa bàn được gì. Vì cuộc họp có tính chất quan trọng như vậy, nhưng phần lớn đại biểu chưa có sự chuẩn bị chu đáo, hơn nữa lại họp gấp rút trong một buổi, nên không thể đề cập kỹ các vấn đề.

Sau hội nghị, Thường vụ Tỉnh ủy bàn tiếp một số việc cụ thể, trước hết là phải nhanh chóng ổn định các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy của tỉnh. Các cơ quan Tỉnh ủy, mặt trận, chính quyền, quân sự chuyển vào Hòn Dữ (Diên Khánh) chuẩn bị chỗ ăn, ở và làm việc, tổ chức hệ thống giao thông liên lạc từ tỉnh đến huyện, thị. Các đồng chí tỉnh ủy được phân công về các địa bàn để triển khai nghị quyết nhằm chuyển hướng tổ chức hoạt động, đẩy mạnh phong trào kháng chiến trong toàn tỉnh.

Hai đồng chí Bùi Định và Trương An trực ở tỉnh và đi Diên Khánh, Vĩnh Xương, Nha Trang phổ biến nghị quyết. Đồng chí Mai Dương ra Bắc Khánh truyền đạt, tổ chức thực hiện chủ trương sớm ổn định tình hình để đi vào giai đoạn chiến đấu mới.

Để tiện việc chỉ đạo phù hợp với tình hình và khả năng cán bộ, địa bàn tỉnh được chia làm nhiều khu kháng chiến. Vùng Nha Trang- Vĩnh Xương- Diên Khánh có tầm quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế và có mối quan hệ chặt chẽ với vùng ta kiểm soát ở Bắc Khánh. Chủ trương của tỉnh là chia 3 huyện này thành 4 khu kháng chiến: Khu I gồm tổng Trung Châu; Khu II gồm hữu ngạn sông Cái từ Thành xuống toàn bộ huyện Vĩnh Xương và thị xã Nha Trang; Khu III từ Thành trở lên gồm các làng thuộc tổng Vĩnh Phước và Ninh Phước; Khu IV gồm các xã thượng lưu sông Cái. Phủ Ninh Hòa cũng được chia làm 6 khu kháng chiến tương đương các tổng trước đây là khu Phước Khiêm (Thượng, Hạ), Thanh Mỹ, Suối Ré, Hòn Khói, Ích Hạ, Xuân Hòa. Ở Vạn Ninh có 3 khu: Phước Thiện, Phước Tường Nội, Phước Tường Ngoại. Ở các khu tổ chức ra ủy ban quân- dân- chính vừa chỉ đạo kháng chiến, vừa làm nhiệm vụ của chính quyền. Đây là hình thức chính quyền kháng chiến tạm thời trong thời kỳ đầu.

Nhờ sự hoạt động tích cực của cán bộ, bộ đội và nhân dân, trong thời gian không lâu tình hình các địa phương trong tỉnh đi vào ổn định. Các tổ chức chính quyền, mặt trận, đoàn thể quần chúng được củng cố lại. Các mặt sinh hoạt và khí thế của quần chúng được khôi phục. Các đoàn thể quần chúng khai hội học tập, bàn việc kháng chiến, tổ chức hũ gạo nuôi quân, hũ gạo kháng chiến, nộp nguyệt phí, nguyệt liễm đều đặn. Các hội “mẹ chiến sĩ”, các đội “bạch đầu quân” ra đời, hoạt động sôi nổi có tác dụng động viên con em tích cực tham gia kháng chiến. Các lớp bình dân học vụ ban đêm được duy trì, thu hút đông đảo nhân dân theo học. Dân quân phát triển rộng rãi và tổ chức hệ thống canh gác, báo tin chuyền bằng âm thanh phục vụ lánh, tránh và đánh địch khi chúng càn quét. Lực lượng vũ trang tập trung được xây dựng và ngày càng lớn mạnh, duy trì được các cuộc chiến đấu du kích tiêu hao sinh lực địch, trừng trị bọn tay sai có nhiều nợ máu. Sau khi địch chiếm Thành (Diên Khánh) mới được 5 ngày, chưa kịp yên ổn, đã bị đội cảm tử do đồng chí Nguyễn Văn Vinh chỉ huy tấn công, diệt hàng chục lính Pháp và một tên quan ba Nhật.

Trong khi lực lượng vũ trang địa phương và một vài đơn vị Nam tiến bám địa bàn, bám dân, phát động chiến tranh du kích, thì có khoảng 500 chiến sĩ được lệnh của chỉ huy mặt trận, rút ra vùng tự do Phú Yên, không có sự bàn bạc hoặc giải thích thỏa đáng với Tỉnh ủy, Uỷ ban hành chính và Mặt trận Việt Minh tỉnh. Trong hoàn cảnh phong trào Khánh Hòa đang cần sự có mặt và hỗ trợ đắc lực của lực lượng vũ trang, thì việc rút một lực lượng lớn bộ đội chủ lực ra khỏi chiến trường có ảnh hưởng không tốt đến phong trào kháng chiến thời gian đầu ở địa phương.

Cùng khi đó, vì bức xúc trước tình hình ở Nha Trang, đồng chí chính trị viên mặt trận và chủ nhiệm Việt Minh tỉnh đã đích thân vào thị xã nắm tình hình, trong khi chưa có sự tổ chức chuẩn bị chu đáo đường dây liên lạc và cơ sở. Đồng chí Hoàng Hữu Chấp bị quân Pháp bắt và xử bắn ngày 21-2-1946. Đồng chí Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh hy sinh là sự mất mát to lớn của Đảng bộ Khánh Hòa trong ngày đầu kháng chiến.

Quân Pháp từ những cứ điểm tại thị xã, thị trấn mở những cuộc càn quét ra xung quanh nhằm tìm diệt các cơ quan chỉ đạo kháng chiến và lực lượng ta như cuộc đánh úp cơ quan huyện Cam Ranh tại Dốc Quýt (Suối Rua), chặn đánh đơn vị vệ quốc đoàn do đồng chí Bảo và An chỉ huy trên đường rút ra Phú Yên. Các cuộc càn lớn vào vùng Đồng Trăng, các làng xung quanh đường 21, thị trấn Ninh Hòa, Vạn Giã, tập kích các cơ quan chính quyền, đoàn thể tại vùng Hóc Chim (Vạn Ninh)… diễn ra liên tiếp. Pháo lớn hàng ngày bắn phá các khu vực nghi là có bộ đội và cơ quan ta đóng làm thiệt hại nhiều về tính mạng và tài sản, gây cho nhân dân nhiều khó khăn trong sản xuất và ổn định đời sống. Bộ máy ngụy quyền tay sai được Pháp dựng lên tại những vùng Pháp chiếm đóng.

Trước hành động ngày càng lấn tới của thực dân Pháp, các đội tự vệ cảm tử diệt một số tên tay sai đầu sỏ, gian ác, vận động nhân dân chống mọi luận điệu tuyên truyền lừa bịp của kẻ thù, bao vây kinh tế, bất hợp tác với địch.

Ngày 6-3-1946 Chính phủ ta và Chính phủ Pháp ký hiệp định Sơ bộ, nước Pháp thừa nhận Việt Nam là một nước tự do có Quốc hội, quân đội và tài chính riêng và ở trong khối Liên hiệp Pháp. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế cho quân đội Tưởng và trong vòng 5 năm (mỗi năm một phần năm) toàn bộ quân Pháp phải rút hết khỏi Việt Nam. Hai bên đình chỉ ngay xung đột để mở đàm phán chính thức. Trong khi đàm phán, quân đội hai bên ở đâu vẫn đóng nguyên ở đấy.

Để cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng đắn và quán triệt chủ trương ký kết hiệp định, ngày 9-3-1946 Trung ương Đảng ra chỉ thị “Hòa để tiến” nhấn mạnh việc không ngừng cảnh giác đề phòng thực dân Pháp bội ước, đồng thời tiếp tục chuẩn bị các mặt cho kháng chiến lâu dài.

Trong đàm phán nổi lên một sự bất đồng lớn, đó là việc phía Pháp đòi để cho số hào lý dưới chế độ thực dân phong kiến trước đây được trở lại làm việc trong bộ máy ngụy quyền do chúng lập ra. Phái đoàn ta kiên quyết phản đối đề nghị bất hợp pháp đó; đại diện Pháp ngoan cố không thay đổi ý kiến.

Các cuộc đàm phán thực hiện Hiệp định Sơ bộ cũng được tổ chức tại Ninh Hòa, Vạn Ninh…

Sau khi ký kết, các cơ quan tỉnh chuyển một bộ phận nhỏ về đóng tại Tứ thôn Đại Điền coi như cơ quan tiền phương để nắm sát tình hình kịp chỉ đạo, lãnh đạo phong trào. Phần lớn bộ phận quan trọng vẫn ở căn cứ Hòn Dữ. Vùng Đại Điền nằm ở tả ngạn sông Cái là một vùng đông dân, ruộng đất màu mỡ, giàu lúa gạo, nhân dân có tinh thần cách mạng cao. Vùng này sát với Thành Diên Khánh, chỉ cách con sông Cái không rộng qua chiếc cầu gỗ và cách Nha Trang khoảng 10 km, rất gần nhiều đồn bót địch. Để đảm bảo an toàn cho cơ quan chỉ đạo, ở đây ta đã có sự chuẩn bị chu đáo từ trước về các mặt, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, Việt Minh, phát triển dân quân du kích tại địa phương, đào đắp công sự, bố phòng chiến đấu, tổ chức chống gián điệp, thám báo, đồng thời xây dựng mạng lưới trinh sát nắm tình hình xung quanh. Riêng các lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh, sau khi vỡ mặt trận đã có sự sắp xếp lại do đồng chí Nguyễn Văn Mô làm chính ủy, đồng chí Hà Văn Lâu chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Hải (Hải Râu) chỉ huy phó đóng quân trên địa bàn này.

Trung tuần tháng 4-1946, đồng chí Trần Tống, phái viên Xứ ủy Trung bộ vào triệu tập Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại thôn Đại Điền Đông để phổ biến tình hình chung, bàn việc thi hành hiệp định sơ bộ và kiểm tra tình hình sẵn sàng đánh địch. Hội nghị thấy rõ âm mưu của thực dân Pháp là cần có thời gian hòa hoãn để đưa quân ra thay thế quân đội Tưởng chiếm đóng miền Bắc Việt Nam, đồng thời chuẩn bị lực lượng mở các cuộc tấn công mới chiếm đất, chiếm dân của ta. Về phía ta cũng cần có thời gian để chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Hội nghị đã bầu bổ sung vào Tỉnh ủy 3 đồng chí: Tống Đình Phương (Ninh Hòa), Trần Danh (Diên Khánh) và Lê Cường (Vĩnh Xương), đồng chí Mai Dương được bầu làm bí thư Tỉnh ủy.

Tỉnh ủy cũng chủ trương tăng cường cán bộ cho cơ sở, nhất là các địa bàn quan trọng như Nha Trang, Vĩnh Xương. Đồng chí Lê Cường được điều về lại Vĩnh Xương, đồng chí Mai Xuân Cống về nội thành, bắt mối với số đồng chí vào trước để xây dựng tổ chức đảng và cơ sở quần chúng.

Các cơ quan chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang có thêm một số đảng viên mới, làm tăng thêm sức chiến đấu của Đảng bộ.

Nhiều chi bộ đảng được thành lập, Ninh Hòa, Vạn Ninh là những huyện có cơ sở đảng và các tổ chức quần chúng tương đối mạnh trong toàn tỉnh. Ninh Hòa có Phủ ủy lâm thời được chỉ định ngày 7-5-1946 gồm có 7 đồng chí, đã phát triển được 40 đảng viên và thành lập 6 chi bộ. Vạn Ninh có Huyện ủy lâm thời gồm 5 đồng chí và 8 chi bộ. Thị xã Nha Trang cũng thành lập được chi bộ đầu tiên gồm 5 đồng chí; Diên Khánh thành lập 2 chi bộ cơ quan ở khu I và khu II; Vĩnh Xương có 3 chi bộ. Công tác phát triển đảng viên, tổ chức xây dựng các tổ chức cơ sở đảng là nhằm chuẩn bị cho việc thành lập các huyện ủy, thị ủy trong thời gian tới. 

QUÂN PHÁP PHẢN HIỆP ĐỊNH,  TA TỔ CHỨC KHÁNG CHIẾN LÂU DÀI

Đúng như nhận định của ta, cuối tháng 4-1946 địch ráo riết hoạt động, có nhiều dấu hiệu chuẩn bị tấn công, phản hiệp định.

Ngày 30-4-1946 chúng gửi tối hậu thư buộc ta đầu hàng và ngay đêm đó bí mật đưa lực lượng vượt sông Cái đóng tại đình Phú Lộc và nhà thờ Hoa Vông (Đại Điền Tây). 5 giờ sáng ngày 1-5-1946 quân Pháp mở cuộc tấn công từ 3 hướng vào Tứ thôn Đại Điền: Lực lượng phía Thành sang, từ Nha Trang theo đường Xuân Phong, Đắc Lộc lên và từ nhà thờ Hoa Vông xuống, kết hợp với hỏa lực súng cối từ đồn An Định bắn qua yểm trợ. Các cánh quân địch phối hợp cùng một lúc đánh bọc phía sau các làng Đại Điền Đông, Đại Điền Trung và Đại Điền Nam nhằm bao vây tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng ta đang đóng ở đây. Khu vực Đại Điền trở thành mặt trận chiến đấu nóng bỏng. Lực lượng bộ đội tỉnh do đồng chí Hà Văn Lâu, Nguyễn Hải chỉ huy đã kịp thời phản kích, bẻ gãy các cuộc tiến quân của địch. Dân quân du kích địa phương phối hợp với chủ lực chiến đấu và phục vụ chiến đấu rất dũng cảm. Đơn vị bộ đội chủ lực Bắc-Bắc do đồng chí Lư Giang chỉ huy đã giáng cho địch những đòn nặng nề tại khu vực Phú Cấp, Phú Nẫm.

Ý đồ của địch là hợp điểm 2 cánh quân từ hướng đông (Phú Cấp, Phú Nẫm) và phía tây (Thành, Đại Điền Tây) để bao vây tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo kháng chiến đã không thực hiện được. Cơ quan lãnh đạo tỉnh kịp rút lên vùng Am Chúa an toàn.

Trận tấn công này của địch rất nham hiểm, nhưng ta không bị bất ngờ. Các lực lượng ta đã phối hợp chiến đấu rất tốt và tinh thần cán bộ chiến sĩ rất dũng cảm. Tuy nhiên cũng có đơn vị đáng phê phán, đó là trường hợp tiểu đoàn10 “Lương Ngọc Quyến”, bộ đội chủ lực, đóng tại phía tây Diên Khánh sát với khu vực Đại Điền, nhưng đã không hoạt động phối hợp khi địch tấn công Đại Điền. Ngày hôm sau khi địch tiến công vào khu vực đóng quân của tiểu đoàn, thì đơn vị lại rút quân ra đóng tại Phú Gia, Sơn Lộc (Phước Thiện- Vạn Ninh).

Cuộc tiến công vào Đại Điền ngày 1-5 là cuộc tiến công lớn nhất kể từ sau khi vỡ mặt trận Nha Trang. Cùng ngày quân Pháp tại Ninh Hòa mở cuộc hành quân phối hợp với cánh quân từ cầu Sông Găng lên càn quét vùng Phú Nhơn. Ở Vạn Ninh chúng bao vây trụ sở Ban Liên kiểm Việt-Pháp thi hành Hiệp định Sơ bộ đóng ở nhà ông Đỗ Cửu thôn Phú Cang, bắt một đại diện của ta là đồng chí Dương Tiến Anh.

Sau cuộc tiến công “phản Hiệp định Sơ bộ”, quân Pháp liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân khác nhằm vào những nơi xung yếu, hòng tiêu diệt lực lượng ta, phá hoại phong trào cách mạng và mở rộng chiếm đóng vùng nông thôn.

Ngày 2-5 địch đánh chiếm Phú Cốc, Đồng Găng (huyện Diên Khánh), đóng đồn và tung quân càn quét ra các vùng xung quanh.

Ngày 6-5 ở Ninh Hòa một tiểu đoàn cơ động Âu Phi có thiết giáp mở đường, chia làm hai mũi: Một mũi từ thôn Quang Đông tiến lên Phước Thuận, một mũi từ Lạc An tiến lên Phú Gia, tiến công mục tiêu chính là cơ quan lãnh đạo huyện Ninh Hòa và tiểu đoàn Lương Ngọc Quyên vừa rút từ Diên Khánh ra đóng quân ở đây. Do chủ quan, thiếu cảnh giác và tinh thần chiến đấu kém, đơn vị của ta bị thương vong lớn, một trung đội bị hy sinh.

Cùng ngày, địch tấn công lên hướng tây nam, bị đại đội vệ quốc đoàn Võ Quốc Thụ phối hợp với dân quân du kích khu Thanh Mỹ chặn đánh tại Cầu Cá, thôn Trường Châu (Ninh Quang), diệt hàng trăm tên địch, bên ta 21 chiến sĩ anh dũng hy sinh. Trận đánh có ảnh hưởng rất lớn đối với nhân dân trong vùng.

Như vậy, sau khi mặt trận Nha Trang bị vỡ, thực dân Pháp lợi dụng thời cơ hòa hoãn, ra sức chuẩn bị các mặt để đúng 2 tháng sau mở các cuộc hành quân lớn thực hiện âm mưu tiêu diệt lực lượng ta, mở rộng vùng kiểm soát, tăng cường củng cố hậu phương. Thực dân Pháp đã trắng trợn phản bội Hiệp định Sơ bộ, nhưng quân Pháp không thực hiện được mục đích chính của cuộc tấn công là tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến và chủ lực của ta, mà ngược lại lực lượng cơ động nòng cốt của chúng bị quân dân ta đánh tiêu hao. Cuộc tiến công của quân Pháp đã vấp phải sức đánh trả ngoan cường của lực lượng vũ trang và tinh thần kháng chiến bất khuất của nhân dân ta. Nhiều nơi trong tỉnh, nhân dân tự nguyện thực hiện “vườn không nhà trống”, bất hợp tác với giặc. Nhân dân Ninh Hòa bằng hình thức thanh viện nổi trống, mõ, thổi tù và…, phối hợp với các mũi chiến đấu của bộ đội, dân quân du kích chống địch càn quét có hiệu quả.

Trong lúc hội nghị trù bị giữa ta và Pháp đang tiến hành ở Đà Lạt, Chính phủ ta và Chính phủ Pháp đang sắp mở hội nghị hai bên tại Pháp, thì bọn thực dân Pháp ở Đông Dương thi hành chính sách “việc đã rồi”. Ngày 1-6-1946 chúng thành lập chính phủ bù nhìn “Cộng hòa Nam kỳ”, chúng còn đánh chiếm Tây Nguyên và dự tính lập nước “Cộng hòa Tây kỳ”, thực hiện âm mưu nham hiểm “chia để trị” của chúng.

Ở Khánh Hòa, ngày 21-6-1946, một lực lượng lớn quân Pháp có máy bay và pháo từ biển bắn yểm trợ, tấn công vùng Tu Bông, huyện Vạn Ninh. Tu Bông là nơi cung cấp nguồn lúa gạo đáng kể cho kháng chiến, đầu cầu tiếp giáp vùng tự do Phú Yên, là chỗ dựa của cơ quan lãnh đạo huyện và cũng là địa điểm tập kết của lực lượng ta từ vùng tự do vào hoạt động tại khu vực Vạn Giã.

Về phía ta, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến tỉnh xây dựng căn cứ ở Hòn Dữ để ổn định công tác. Các Phủ ủy Ninh Hòa, Huyện ủy Vĩnh Xương, Thị ủy Nha Trang được thành lập11. Địa bàn xa sự chỉ đạo của tỉnh là Cam Ranh, ở đây các đồng chí cũng đã tổ chức được cơ quan chỉ đạo kháng chiến gồm 3 đồng chí do đồng chí Tôn Thất Chí (Nguyễn Thiện Chí) làm chủ tịch.

Ta vẫn kiểm soát phần lớn vùng nông thôn đồng bằng, chính quyền cơ sở ở nhiều nơi vẫn bám sát địa bàn hoạt động.

Lực lượng vũ trang tập trung của trên, đại bộ phận rút ra vùng tự do Phú Yên để xây dựng, chỉ còn một đơn vị nhỏ ở lại hoạt động phân tán tại khu vực Nam Khánh.

Ở phía Bắc Khánh, vào đầu tháng 8-1946 bộ đội Ninh Hòa đánh đoàn xe địch từ Nha Trang ra Ninh Hòa tại Cát Lợi phá hủy 3 xe, diệt 20 tên Pháp. Đoạn đường sắt qua lại địa bàn Vạn Ninh, Ninh Hòa liên tục bị cắt đứt. Nhiều xe địch bị trúng mìn của du kích trên quốc lộ 1. Đầu tháng 10-1946 du kích đánh bom đoàn xe quân sự địch tại dốc Đá Trắng (Vạn Ninh) phá 2 xe, diệt và làm bị thương 30 tên. Dân quân và du kích các khu vực chống địch càn quét ven rừng, đánh thiệt hại nhiều sinh lực địch, thu vũ khí như các trận Mỹ Lương, Ổ Gà, Phú Gia, Phước Thuận… Thành tích chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương được ghi nhận trong báo cáo của Bộ Tư lệnh Đại đoàn 27 (khu VI) gửi về Bộ Tổng Tư lệnh: “Sau mặt trận Nha Trang vỡ, toàn tỉnh Khánh Hòa không còn lực lượng vệ quốc đoàn. Nhờ 2 tiểu đoàn dân quân Ninh Hòa hoạt động ráo riết dưới sự chỉ đạo của Trịnh Huy Quang, chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Mỹ Hữu ở lại nên Ninh Hòa giữ được chính quyền và dân chúng…”.

Cuộc kháng chiến hơn một năm của Khánh Hòa có ý nghĩa thực tiễn, làm sáng tỏ khả năng của quân và dân ta, dưới sự chỉ đạo của Đảng tiền phong, có thể kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược và đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

 CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH DỪNG CHÂN Ở VỊNH CAM RANH

Một sự kiện nổi trong lịch sử kháng chiến của Khánh Hòa thời gian này là cuộc hội kiến giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp Đô đốc Đắc-giăng-li-ơ (D’Argenlieu) tại vịnh Cam Ranh để bàn việc thi hành Tạm ước 14-9-1946.

Cuộc đàm phán Phông-ten-nơ-blô không thành vì sự ngoan cố của phía Pháp. Phái đoàn Chính phủ ta về nước. Cũng thời gian đó Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm nước Pháp với tư cách là một thượng khách đã ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14-9. Tinh thần bản Tạm ước là không nên để cho đổ vỡ tất cả, mà phải cố gắng duy trì mối quan hệ Việt- Pháp, chuẩn bị để đến tháng 1-1947 cuộc đàm phán lại tiếp tục.

Ngày 14-9 ký với Chính phủ Pháp thì ngày 15-9 Hồ Chủ tịch tuyên bố với các nhà báo Pháp: “Chúng tôi hy vọng về phần người Pháp cũng thành thật thi hành như chúng tôi”.

Trên đường Người về nước đã diễn ra cuộc gặp giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp Đắc-giăng-li-ơ (D’Argenlieu) tại vịnh Cam Ranh. Đắc-giăng-li-ơ là một nhân vật hiếu chiến điển hình của thực dân Pháp ở Đông Dương. Đắc-giăng-li-ơ đã có lần gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại vịnh Hạ Long (23-3-1946) để bàn việc thi hành Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 thì lần này Đắc-giăng-li-ơ lại gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh để bàn việc thi hành Tạm ước 14-9.

Cuộc gặp gỡ diễn ra vào ngày 18-10-1946 trên chiến hạm Sup-phơ-ren của Pháp neo tại vịnh Cam Ranh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân tại vịnh Cam Ranh, nhưng chính quyền và nhân dân Khánh Hòa không được đón tiếp Người, chỉ được biết qua sự tường thuật của các tờ báo Việt và Pháp đương thời.

Nhân dân Khánh Hòa đã có nhiều cuộc đấu tranh đòi thực dân Pháp thi hành Tạm ước 14-9 và đã bị chúng đàn áp đẫm máu. Những cuộc mít tinh diễn ra ở Nha Trang, Vĩnh Xương, Thành (Diên Khánh), Hòa Tân (Cam Lâm) tập trung hàng ngàn người tham gia. Đặc biệt nhân dân ở Đại Điền Nam và Đại Điền Trung họp mít tinh đòi thực dân Pháp phải trả tự do cho đồng chí Trần Oanh, Chủ nhiệm Việt Minh huyện Diên Khánh bị quân Pháp bắt, theo đúng điều khoản bản Tạm ước 14-9 quy định. Đây là thời gian phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị diễn ra ở nhiều vùng nông thôn Khánh Hòa. 

1. Bờrôten: (Nghĩa là cái dây đeo quần): Khu vực ngã ba đường sắt Bắc- Nam trước khi vào đoạn đường vòng ga Nha Trang.

2.VB: Lựu đạn dùng đạn mã tử súng trường để phóng đi đường cầu vòng như một dạng súng phóng lựu (Tromplong VB).

3. Tài liệu lưu trữ tại Lịch sử quân sự Quân khu V.

4. Kết quả bầu cử tại Nha Trang trong báo Vì nước:

Số cử tri toàn tỉnh: 97.515.

Số cử tri đi bầu: 85.245.

Số phiếu hợp lệ: 82.015.

  Các vị trúng cử: Nguyễn Văn Chi: 82.013 phiếu, Tôn Thất Vỹ: 74.466 phiếu, Đào Thiện Thi: 67.474 phiếu.

5. Bác Hồ trong lòng dân Khánh Hòa, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy xuất bản năm 1990, trang 22.

6. 7. Bác Hồ trong lòng dân Khánh Hòa, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa xuất bản năm 1990, tr. 22,23, 25.

8. Tức 27 Tết Bính Tuất. Nhân dân Ninh Hòa còn truyền lại bài vè: “Chiều 27 Tết giặc ầm ầm reo,

Dẫm lên làng xóm thân yêu                                                                                               

Nhà tôi bị đốt một chiều cuối năm…”

9. Tên đồng chí Trần Tạo sau này được đặt cho 1 tiểu đoàn bộ đội vệ quốc đoàn.

10. Lúc đó gọi là đại đội.

11. Ninh Hòa lúc đó gọi là Phủ ủy.

Cuộc ‘Tập Dượt’ Đầu Mua Mưa Bão

Bão Côn Sơn đã suy yếu thành vùng áp thấp và tan dần. Như vậy “cuộc tập dượt” của các Bộ ngành, địa phương cũng như người dân phòng tránh cơn bão số 1 đã kết thúc,…

* Bộ trưởng Cao Đức Phát: Các địa phương đã phản ứng mau lẹ, quyết liệt

Như vậy “cuộc tập dượt” của các Bộ ngành, địa phương cũng như người dân phòng tránh cơn bão số 1 đã kết thúc, nhưng nó lại mở ra những bài học cho chúng ta đối phó với những cơn bão mới của mùa mưa bão được dự báo là khốc liệt năm 2010 này.

Theo thống kê, chỉ một đêm càn quét nhưng bão Côn Sơn đã khiến 303 nhà bị hư hỏng và tốc mái (Quảng Ninh 200; Hải Phòng 103); 27 tàu tàu bị đắm, vỡ (Quảng Ninh 15; Hải Phòng 5; Quảng Ngãi 6; Hà Tĩnh 1); 34 tàu tàu thuyền bị trôi, trong đó có 3 tàu lớn đang sửa chữa tại Hải Phòng; 33 chiếc lồng bè hải sản của người dân cũng bị cuốn trôi trong bão. Tại Hải Phòng, một cẩu hàng tại đảo Bạch Long Vĩ bị gãy, ba chiếc tàu biển trọng tải lớn đang neo đậu, sửa chữa bỗng dưng bị “xổng đà” trôi và va đập mạnh vào cầu Bính (bắc qua sông Cấm) nằm cách đó chừng vài trăm mét bị hư hỏng. Mọi hoạt động giao thông qua lại giữa các quận nội thành với huyện Thủy Nguyên đều phải tạm dừng. Tuy nhiên gần như ngay lập tức, các lực lượng đã triển khai khắc phục hậu quả.

Mưa với cường độ lớn, dồn dập liên tục của bão Côn Sơn đã gây ảnh hưởng đến diện tích lúa mùa tại các tỉnh Thái Bình, Nam Định…Trên 2.000 ha lúa mùa mới cấy và 1.700 ha ngô, rau màu, đậu tương…ở huyện Vũ Thư (Thái Bình) bị dập nát. Lượng mưa trung bình tại tỉnh Nam Định đến sáng ngày 18/7 là 159mm, gây ngập úng 36.958 ha lúa mới cấy. Trong đó có 20.000 ha ngập sâu. Hiện, tỉnh đang chỉ đạo tối đa cho việc chống úng, chống ngập và cứu lúa. Đến 7h ngày 18/7, tất cả các máy bơm của tỉnh đang hoạt động hết công suất để tiêu úng và phấn đấu đến ngày 19/7 hoàn thành việc bơm nước chống úng, chống ngập để cấy lại lúa mùa. Theo kế hoạch, đến 25/7 phải cơ bản hoàn thành việc cấy lúa mùa bị chết. UBND tỉnh đã có công điện gửi các huyện, thành phố và các đơn vị thủy nông với nhiệm vụ phải cứu lúa mùa là ưu tiên số 1. Toàn bộ các đê chắn sóng ở các huyện ven biển như: Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng có bờ biển dài 72km đều an toàn và không có bất cứ sự cố nào về đê xảy ra.

Nhìn chung, bão số 1 không gây thiệt hại lớn về người. Tỉnh Quảng Ninh có 5 người (1 người bị sóng đánh trôi ở khu vực đảo Cống Đỏ, 4 người trên tàu vận tải HD 0120/04 bị chìm tại khu vực hòn Gà Chọi), tuy nhiên qua một đêm tích cực tìm kiếm, 8h sáng hôm qua (19/7) lực lượng chức năng đã cứu sống các thuyền viên ở Quảng Ninh. Riêng ông Lương Văn Quang đi trên tàu bị sóng đánh trôi ở khu vực đảo Cống Đỏ, đến 5h sáng hôm qua cũng được tìm thấy. Ông Quang bị thương và đang được chăm sóc tại trạm y tế xã Thắng Lợi, huyện đảo Vân Đồn.

Đáng tiếc nhất là trường hợp một phụ nữ đi tắm biển khi biển động ở bãi biển Hải Hòa (Tĩnh Gia, Thanh Hóa) và bị sóng cuốn mất tích. Về trường hợp cháu bé chưa xác định được danh tính ở phường Yết Kiêu (Hạ Long) bị chết đuối do lật thuyền, cơ quan chức năng khẳng định không phải do bão gây ra . Được biết, cháu bé là con của một phụ nữ sống nghề chài lưới, bị bệnh và chết vào ngày 16/7. Ngày 17/7, đúng lúc bão gây sóng to, gió mạnh, người mẹ đưa con vào đất liền chôn cất thì thuyền bị lật khiến xác cháu bé trôi dạt vào phường Yết Kiêu.

Lượng mưa do bão số 1 gây ra không lớn như dự báo, phổ biến từ 50-100 mm. Tuy nhiên cơ quan khí tượng vẫn cảnh báo cần đề phòng hoàn lưu của bão có khả năng gây mưa ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Thanh Hóa. Người dân vùng núi cần đề phòng lũ quét và sạt lở đất.

Tại cuộc họp của BCĐ PCLB TƯ hôm qua, Bộ trưởng Cao Đức Phát đánh giá cao sự phản ứng mau lẹ, quyết liệt của các tỉnh trong việc kêu gọi tàu thuyền vào nơi trú ẩn, sơ tán dân ở vùng nguy hiểm. Ngay khi BC Đ PCLB TƯ có công điện khẩn thông báo tình hình bão, các địa phương đã chủ động bố trí lực lượng tại các điểm xung yếu. Đoàn công tác của Bộ trưởng liên tục đi về giữa các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Thái Bình…để trực tiếp chỉ đạo các địa phương đối phó bằng việc lập ban chỉ huy tiền phương ngay tại các điểm xung yếu.

Theo đánh giá của Bộ trưởng Cao Đức Phát, bão số 1 là cơn bão mạnh, diễn biến phức tạp, gây nhiều khó khăn cho công tác chỉ đạo phòng, chống của các địa phương. Thông thường, cơn bão đầu tiên trên biển Đông thường đổ bộ vào Trung Quốc hoặc biên giới Việt – Trung, nhưng cơn bão này đã đi thẳng vào đồng bằng Bắc bộ. Chính vì vậy, trong một bộ phận nhân dân và cán bộ có tâm lý chủ quan trong phòng chống. “Dự báo bão hướng lên phía bắc, chúng ta đã khuyến cáo ngư dân nên ra khỏi vùng biển khu vực quần đảo Hoàng Sa, nhưng một số tàu vẫn ở lại”. Đây là bài học các địa phương và người dân cần khắc phục ngay trước khi đối phó với những cơn bão tiếp theo.

Hiện BCĐ PCLB TƯ tiếp tục chỉ đạo các địa phương nhanh chóng hỗ trợ nhân dân sửa chữa nhà cửa, khắc phục nhanh các sự cố và thiệt hại về điện, viễn thông, thu dọn cây xanh gẫy đổ, giải toả giao thông tại Hải Phòng, Quảng Ninh để các địa phương này sớm khôi phục SX và ổn định đời sống.

Hoàng Anh

Những Anh Hùng Trong Kháng Chiến Chống Mĩ

Nguyễn Văn Trỗi, sinh năm 1940, quê ở xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, nhập ngũ ngày 17 tháng 2 năm 1964. Khi hy sinh đồng chí là chiến sĩ biệt động thành phố Sài Gòn, đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.

Nguyễn Văn Trỗi là công nhân thợ điện Sài Gòn. Sống giữa xã hội bất công thối nát của Mỹ – ngụy, hàng ngày chứng kiến những hành động tội ác của bọn tay sai bán nước và bộ mặt đểu cáng của giặc Mỹ xâm lược, anh nung nấu mối căm thù chúng. Nguyễn Văn Trỗi đã tìm đến cách mạng và được giáo dục giác ngộ. Sau đó anh tình nguyện gia nhập đội biệt động 65, Quân khu Sài Gòn – Gia Định.

Là một thanh niên giàu lòng yêu nước và nhiệt tình cách mạng, một chiến sĩ vũ trang gan dạ, Nguyễn Văn Trỗi luôn hăng hái thực hiện mọi công tác của đội biệt động giao cho, vừa hoạt động, vừa tích cực vận động giác ngộ bạn bè tham gia công tác cách mạng.

Tháng 5 năm 1964, Nguyễn Văn Trỗi được tổ chức giao nhiệm vụ giết tên Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, Mác-na-ma-ra, một tên trùm tội ác chiến tranh. Đây là trận đánh mang ý nghĩa chính trị rất lớn. Lợi dụng thế hợp pháp là công nhân, vừa đi làm Nguyễn Văn Trỗi vừa nghiên cứu quy luật đi về của tên bộ trưởng chiến tranh Mỹ, suy nghĩ tím cách đánh phù hợp nhất. Theo kế hoạch chỉ đạo của trên, ngày 9 tháng 5 năm 1964, đồng chỉ thực hiện trận đánh bằng cách dùng mìn điểm hỏa bằng điện đặt ở cầu Công Lý, đón tên Mác-na-ma-ra trên đường đi ra sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng trận đánh chưa thực hiện được thì bị lộ và anh bị bắt.

Địch giam Nguyễn Văn Trỗi ở khám Chí Hòa và mọi thủ đoạn từ dụ dỗ đến tra tấn dã man vẫn không khuất phục được anh. Trong những ngày bị giam cầm Nguyễn Vàn Trỗi đã đấu tranh quyết liệt với địch bâng mọi lý lẽ và ý chí bất khuất, khiến bọn chúng tức tối và kính nể. Khí phách anh hùng của anh đã cổ vũ anh em trong tù tăng thêm nghị lực đấu tranh.

Sau 4 tháng giam giữ không làm chuyển được tấm lòng kiên trinh của Nguyên Văn Trỗi, chính quyền Nguyễn Khánh đã kết án tử hình anh. Trong những ngày còn lại của đời mình, Nguyễn Văn Trỗi vẫn lạc quan, tin tưởng và tiếp tục đấu tranh với địch. Ngày 15 tháng 10 năm 1964, chứng đã hèn hạ giết Nguyễn Văn Trỗi.

9 phút cuối cùng ở pháp trường, Nguyễn Văn Trỗi đã hiên ngang vạch tội quân bán nước và cướp nước, khẳng định việc làm chính đáng của mình, khẳng định cách mạng Việt Nam nhất định thắng lợi. Đồng chí dõng dạc hô to 3 lần: “Hồ Chí Minh muôn năm.” Khi bị trúng đạn ngã xuống Nguyễn Văn Trỗi cố gượng dậy hô: Việt Nam muôn năm!

Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của Nguyễn Văn Trỗi đã làm xúc động dư luận trong nước và thế giới.

Trong phiên họp bất thường ngày 17 tháng 10 năm 1964, Chủ tịch đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định tặng danh hiệu Anh hùng và Huân chương Thành đồng hạng nhất cho liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi.

Nguyễn Văn Đừng sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê ở ấp 1, xã Phong Mỹ, huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp nhập ngũ ngày 5 tháng 9 năm 1959. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội trưởng thuộc đại đội 1, tiểu đoàn 261A (tiểu đoàn ghi rông) đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Văn Đừng đã tham dự hơn 30 trận chiến đấu, luôn luôn nêu cao tinh thần kiên quyết, dũng cảm, có tác phong chiến đấu rất mưu trí, linh hoạt, khi tiến công thì mãnh liệt chớp nhoáng, khi bám trụ thì gan góc kiên cường, có ý thức chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh một cách kiên quyết, triệt để, được cấp trên tin cậy, thường giao nhiệm vụ quan trọng đột xuất trong những tình huống đặc biệt, được đồng đội yêu mến.

Nguyễn Văn Đừng là tiểu đội trưởng của “tiểu đội gang thép” ở Ấp Bắc.

Trong trận đánh vận động ở Thủ Thừa, 1 tiểu đoàn địch lọt vào trận địa của ta. Bộ phận chặn đầu và trinh sát của ta đã nổ súng đánh địch, nhưng chưa có lệnh của cấp trên, Nguyễn Văn Đừng vẫn kiên trì nằm phục, mặc cho địch vào cách 15 mét rồi 10 mét, khi có lệnh mới bất ngờ nổ súng tiêu diệt quân địch. Trận đánh diễn biến gay go, bọn địch triển khai chiếm địa hình có lợi chống trả lại ta rất quyết liệt. Được lệnh, đồng chí đã dũng cảm vác trung liên vượt qua bãi trống dưới làn đạn địch, thọc vào giữa đội hình của chúng, tạo thời cơ thuận lợi cho đợn vị xung phong, đánh bại tiểu đoàn “Cọp đen” nổi tiếng ác ôn.

Trong trận đánh địch ở Gò Công, đơn vị bố trí phục kích diệt một toán quân địch. Tình huống diễn biến không như dự kiến. Quân địch hành quân hướng khác, chỉ chạm phải khúc đuôi của trận địa ta. Hai bên nổ súng chiến đấu quyết liệt. Đại bộ phận quân ta vẫn giữ được bí mật trận địa. Đại đội trưởng lệnh cho tiểu đội Nguyễn Văn Đừng bí mật vận động lên, đánh tạt sườn quân địch. Đồng chí vác trung liên dẫn đầu tiểu đội cơ động, bất ngờ đột kích mãnh liệt vào bên sườn trái, hất quân địch vào thế trận của ta. Bị đòn bất ngờ, toàn bộ đội hình quân địch rối loạn trước sức tiến công dồn dập của cả đơn vị. Kết thúc trận đánh, ta diệt 145 tên, thu nhiều súng các loại.

Trong trận Ấp Bắc lịch sử, tiểu đội của Nguyễn Văn Đừng nhận nhiệm vụ hướng phòng ngự chủ yếu. Sau khi đã vận động ra tiêu diệt một cánh quân địch đổ bộ, trở về trận địa, đồng chí động viên anh em: “Dù ác liệt thế nào, cũng kiên quyết giữ vững trận địa, tiêu diệt địch đến cùng…”.

Bọn địch lại tổ chức những đợt tiến công mới chúng liên tục cho phi pháo và xe M.113 đánh vào trước mặt, rồi cho máy bay lên thẳng đổ quân xuống sau lưng trận địa ta. Địch 5 lần phối hợp xung phong vào, nhưng đều bị tiểu đội của đồng chí đánh bật ra. Cho đến chiều tối,cả tiểu đội chỉ còn lại 3 người: đồng chí và 2 chiến sĩ nữa. Địch lại tổ chức xe M.113 kết hợp với bộ binh tiến công lên. Đồng chí phân công 2 chiến sĩ tập trung diệt bộ binh, còn đồng chí chuẩn bị lựu đạn đánh xe. Chờ cho chiếc M.113 đi đầu tiến sát tới bờ hào, đồng chí nhảy vọt lên, ném thủ pháo. Chiếc xe đi đầu bốc cháy ngay tại chỗ. Chiếc đi sau vội lủi lại, vừa bắn xối xả vào chỗ đồng chí, vừa tháo lui. Tuy đã bị thương nặng, Nguyễn Văn Đừng vẫn gọi 2 chiến sĩ lại, dặn thêm một lần nữa: Quyết giữ vững trận địa… Đồng chí đã hy sinh ngay trên mép chiến hào, bên xác chiếc M.113 còn đang bốc cháy.

Trong chiến tháng Ấp Bâc, riêng tiểu đội đồng chí đã diệt 3 xe M.113, bắn bị thương 1 chiếc khác, cùng đơn vị bắn rơi 5 máy bay lên thẳng, bắn bị thương 9 chiếc, diệt 470 tên địch. Nhân dân Ấp Bắc đã tặng tiểu đội đồng chí danh hiệu “Tiểu đội gang thép!”.

Nguyễn Văn Đừng đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất và là Chiến sĩ thi đua của quân khu.

Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Nguyễn Văn Đừng được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Quân công Giải phóng hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

Võ Như Hưng (tức Võ Như Trích) sinh ngày 5 tháng 5 năm 1929, dân tộc Kinh quê ở xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, nhập ngũ ngày 5 tháng 5 năm 1952. Khi hy sinh đồng chí là trung đội trưởng bộ đội đặc công tỉnh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, lên 10 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ, gia đình lại là cơ sở tốt của ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, được cách mạng giáo dục, Võ Như Hưng sớm giác ngộ, nhiều lần đã tình nguyện tòng quân, nhưng vì vóc người nhỏ bé nên không trúng tuyển. Mãi tới năm 1952, đồng chí mới được nhận vào bộ đội, làm chiến sĩ của trung đoàn 303, đã cùng đồng đội chiến đấu trên các chiến trường Quảng Nam, Tây Nguyên… và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sau ngày hòa bình lập lại, đồng chí tập kết ra Bắc, đến năm 1960, lại tình nguyện trở về miền Nam chiến đấu. Võ Như Hưng là một trong những dũng sĩ xuất sầc nhất trong 7 dũng sĩ Điện Ngọc.

Cuối năm 1960, trong trận đánh bốt 6 (vùng Điện Bàn), trước giờ xuất phát mặc dù vừa mới qua cơn sốt nặng, được cấp trên cho nghỉ, nhưng Võ Như Hưng vẫn kiên quyết xin đi bằng được. Giữa lúc tình hình chiến đấu đang diễn biến khẩn trương, đồng chí bị một mảnh pháo phạt ngang làm gãy xương tay trái, nhưng vẫn nén đau cùng đồng đội anh dũng tiêu diệt địch cho tới lúc ta làm chủ hoàn toàn trận địa.

Năm 1961, trong trận đánh Nam Thành – một trung tâm huấn luyện biệt kích của địch ở Hòa Cam, cách sân bay Đà Nẵng chừng 500 mét, địch bố phòng rất cẩn mật – đồng chí được giao nhiệm vụ phụ trách mũi tiến công chủ yếu.Vừa bước vào chiến đấu, vì nghe nhầm lệnh, đại bộ phận quân ta đều rút ra, riêng mũi của Võ Như Hưng do nhận lệnh đúng, vẫn xông thẳng vào trung tâm, diệt sở chỉ huy bọn cố vấn Mỹ. Giải quyết xong mục tiêu, biết tin cả đơn vị đã lui quân, đồng chí bình tĩnh xử trí, tổ chức cho anh em yểm hộ nhau rút từng bộ phận, dù ít người, vẫn thu 12 súng và dẫn 9 tù binh về đơn vị an toàn.

Ngày 26 tháng 4 năm 1962, tiểu đội của Võ Như Hưng nhận nhiệm vụ thọc sâu vào lòng địch quấy phá, hỗ trợ cho đợt “phá ấp chiến lược, giải phóng thêm dân, thêm đất” do tỉnh phát động. Tiểu đội đã đi suốt từ vùng Ông Nổi, qua đồn Gò Đá, tới Quảng Lăng, Quảng Hậu, thôn 4 Điện Bàn, về đến Cẩm Sa thì bị 1 tiểu đoàn địch bao vây; và trận đánh nổi tiếng của “Bảy dũng sĩ Điện Ngọc” quanh chiếc giếng cạn đã diễn ra ở đây. Các chiến sĩ thề với nhau: “Quyết chiến đấu tiêu diệt nhiều địch, không chịu để rơi vào tay giặc”. Suốt một ngày trời, cả tiểu đoàn địch mở hàng chục đợt xung phong, nhưng lần nào cũng bị đánh bật ra. Cuộc chiến đấu rất không cân sức này càng về chiều càng hết sức gay go quvết liệt. Nhiều lần địch liều chết ùa tới gần, tung lựu đạn xuống lòng giếng; anh em liền chộp lấy, ném trả lại. Tuy nhiên, cũng có quả nổ ngay trong giếng, làm một số hy sinh và hầu hết cả tiểu đội đều đã bị thương.

Trời tối dần, 4 chiến sĩ còn lại quyết mở đường máu, vượt vòng vây. Sau một đợt tập trung lực lượng, tổ chức xung phong mãnh liệt, bất ngờ, các đồng chí đã rút ra an toàn. Đi được một đoạn, kiểm tra lại thấy còn thiếu một chiến sĩ bị thương nặng không theo kịp đồng đội, đồng chí quyết định quay lại tìm bằng được và dìu bạn vượt qua những chặng đường đầy gian khổ, hiểm nguy, ngày ẩn nấp, đêm lại tiếp tục đi, đưa đồng đội vượt vành đai giặc về đơn vị an toàn.

Trong trận chống càn ngày 20 tháng 12 năm 1963, khi 2 đại đội địch đã lọt vào trận địa ta, Võ Như Hưng cho nổ súng. Bị đánh bất ngờ, địch hoảng hốt, tán loạn. Quân ta lập tức xung phong, truy kích đến cùng. Trên đường đuổi giặc Võ Như Hưng bị thương nặng ở bụng, đạn xuyên từ phải qua trái, làm đứt nhiều khúc ruột. Mặc dù được đưa đi bệnh viện kịp thời, và đã được tận tình cứu chữa, song vết thương quá nặng, không thể nào cứu nổi. Trên giường bệnh, tới giây phút cuối cùng, đồng chí vẫn kiên trì chịu đựng không hề rên la, luôn luôn lạc quan, tin tưởng vào tiền đồ và thắng lợi của cách mạng.

Ngày 5 tháng 5 năm 1965, đồng chí Võ Như Hưng được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Quân công Giải phóng hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

Nguyễn Viết Khái (tức Nguyễn Văn Huôi) sinh năm 1940 dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Hương Tây, huyện Cái Nước, tỉnh Minh Hải, nhập ngũ tháng 12 năm 1962. Khi hy sinh đồng chí là trung đội phó trung đội 3, đại đội Quyết Thắng, tiểu đoàn U Minh 2, tỉnh Cà Mau, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1954, Nguyễn Viết Khái làm liên lạc của xã. sau chuyển sang công tác thanh niên, tới năm 1961 chính thức gia nhập du kích, làm ấp đội trưởng, sang năm 1962 được cấp trên giao nhiệm vụ chỉ huy toàn bộ lực lượng du kích của xã.

Suốt quá trình hoạt động, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm, bị địch hăm dọa nhiều lần, Nguyễn Viết Khái vẫn luôn luôn vững vàng, trung thành với Đảng, với cách mạng, tích cực xây dựng phong trào, xây dựng cơ sở. Đặc biệt trong chiến đấu, đồng chí rất bình tĩnh, gan dạ, lập nhiều chiến công xuất sắc, đã tham gia trên 50 trận đánh với “nhiều cách đánh linh hoạt, táo bạo, diệt hàng trăm địch, bắn rơi 4 máv bay lên thẳng, là một trong số những dũng sĩ diệt Mỹ đầu tiên tham gia đánh bại chiến thuật “trực thăng vận” của địch ở vùng này.

Năm 1962, bọn địch ở chi khu Bình Hưng tập trung 600 quân, chia làm 3 cánh, càn vào vùng giải phóng Tân Hưng Tây, định bất ngờ đánh úp cơ quan chỉ huy xã, diệt lực lượng du kích, cướp của cải của nhân dân rồi lùa dân vào ấp chiến lược. Trước tình thế bất ngờ đó, Nguyễn Viết Khái đã chỉ huy một tổ chiến đấu chặn đánh ghìm chân địch suốt từ nửa đêm hôm trước đến hết ngày hôm sau, bảo vệ cho cán bộ rút ra ngoài an toàn, vì bị thiệt hại nặng, địch đã buộc phải rút quân bỏ dở cuộc càn.

Ngày 20 tháng 12 năm 1962, địch dùng 40 máy bay các loại bất ngờ đổ quân xuống nhiều địa điểm hòng bao vây, tiêu diệt lực lượng du kích. Đồng chí dẫn đầu một tổ chiến đấu luồn lách khắp nơi, tìm cách đánh địch. Trong lúc đang thi hành nhiệm vụ, vì bị địch phát hiện tổ chiến đấu Nguyễn Viết Khái sa vào vòng vây của chúng. Lực lượng quá chênh lệch (1 đánh với 100), song các đồng chí cơ động chiến đấu rất linh hoạt, địch không làm gì được, càng đánh kéo dài, địch càng bị tiêu hao lực lượng, cả 5 lần địch tổ chức xung phong đều thất bại, chúng phải lủi ra xa, gọi máy bay đến ném bom và xin chi viện thêm quân. Sau 1 giờ bắn phá và ném bom dũ dội, một đoàn máy bay lên thẳng ào tới, đổ quân. Bằng 8 phát đạn tiểu liên, đồng chí đã bắn trúng 4 chiếc, 2 chiếc bốc cháy tại chỗ, 2 chiếc kia cố bay ra tới kênh 5 và khu vực Ông Xe thì rơi nốt. Hơn 60 tên địch trong 4 chiếc máy bay đều tan xác. Số máy bay lên thẳng còn lại hốt hoảng bay lên cao rồi cút thẳng.

Sau chiến thắng này, đồng chí được quân khu cử đi học, rồi về phụ trách trung đội phó ở đại đội Quyết Thắng bộ đội địa phương tỉnh Cà Mau. Trong lần tiến công đồn Văn Cái Tây (tháng 10 năm 1963) giữa lúc trận đánh đang gay go thì trung đội trưởng hy sinh. Đồng chí đang phụ trách lực lượng dự bị ở bên ngoài, nghe tin đó, liền vào tiếp tục chỉ huy trung đội chiến đấu và dẫn đầu đội hình đơn vị xung phong vào trung tâm đồn địch. Trận đánh sắp kết thúc thì đồng chí bị trúng đạn và đã anh dũng hy sinh.

Nguyễn Viết Khái là một cán bộ gương mẫu về mọi mặt, chiến đấu anh dũng, có hiệu suất cao, sống khiêm tốn, giản dị, trung thực, thật thà, được cấp trên tin cậy, đồng đội và nhân dân quý mến, tin yêu.

Đồng chí đã được thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất, 2 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua của tỉnh và quân khu.

Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Nguyễn Viết Khái được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

Tạ Thị Kiều (tức Mười Lý) sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê xã An Thạnh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương từ năm 1958, nhập ngũ tháng 11 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là cán bộ ban chỉ huy quân sự huvện Mỏ Cày, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Xuất thân từ một gia đình có truyền thống yêu nước (cha, anh đều đi hoạt động cách mạng, gỉa đình là cơ sở nuôi cán bộ bí mật), Tạ Thị Kiều sớm được giác ngộ, căm thù giặc Mỹ và bè lũ tay sai đàn áp nhân dân, chia cầt đất nước, đổng chí đã tích cực, hăng hái hoạt động và trở thành người cán bộ nòng cốt trong phong trào cách mạng ở địa phương. Đồng chí đã tổ chức và tham gia 107 lần đấu tranh chính trị trực diện với địch, chiến đấu 33 trận, diệt 7 tên địch, bắn bị thương 11 tên, bắt sống 13 tên, thu 24 súng các loại. Trong chiến đấu, Tạ Thị Kiều luôn luôn bình tĩnh, dũng cảm, chỉ huy vững vàng, gan dạ và mưu trí.

Tháng 1 năm 1960, địch tăng cường củng cố khu trù mật Thành Thới để kìm kẹp nhân dân và đánh phá cơ sở của ta. Được phân công gây dựng phong trào, tổ chức cơ sở, đồng chí đã kiên trì vận động nhân dân và xung phong đi đầu trong các cuộc đấu tranh trực diện với địch, khéo léo làm công tác binh, địch vận, tranh thủ người tốt, phân hóa, cô lập bọn ác ôn ngoan cố, tích cực phát triển lực lượng nòng cốt trong hàng ngủ địch. Qua gần 7 tháng, Tạ Thị Kiều đã tổ chức được 107 cuộc đấu tranh chính trị, phát triển được 3 tổ nòng cốt trong lực lượng cách mạng, vận động được 13 gia đình binh sĩ, tuyên truyền được 4 lính ngụy về với nhân dân, tổ chức được 2 người khác giúp ta hoạt động tốt, gây cho địch một số thiệt hại và hạn chế được tác hại do hành động tội ác của chúng.

Để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, Tạ Thị Kiều tổ chức một tiểu đội du kích, thường xuyên hoạt động: rải truyền đơn, treo băng cờ, khẩu hiệu, phá rào ấp chiến lược, gài mìn, phá đường, đốt chòi canh, cảnh cáo, diệt ác ôn… khiến bọn địch ngày càng hoang mang, nao núng.

Trong trận đánh bốt An Bình, tuy lực lượng ta ít, nhưng do đồng chí đã xây dựng được cơ sở và nắm địch tốt, mưu trí tìm nhiều cách phân tán và đánh lừa địch, nên tạo điều kiện cho đồng đội xung phong lấy gọn bốt, quân ta an toàn và vẫn giữ được thế đấu tranh hợp pháp.

Trong trận đánh bốt Kinh Quang, Tạ Thị Kiều đã vạch ra kế hoạch và lại trực tiếp thực hiện, dụ bọn địch ra bờ kênh, tạo cơ hội cho anh em xông vào lấy đồn không tốn một viên đạn.

Tháng 10 năm 1961, đồng chí chỉ huy đội du kích phục kích đánh xe địch trên đường Mỏ Cày đi Thom, bắn cháy 1 xe ngay khi địch mới lọt vào trận địa. Lực lượng địch còn đông, ỷ thế mạnh, dùng hỏa lực áp đảo, bắn mạnh vào chỗ du kích ta bố trí, đồng thời bọn lính trên xe đi sau cũng triển khai, đánh trả ta quyết liệt. Xét tình thế bất lợi, đồng chí đã bình tĩnh một mình ở lại cơ động, chiến đấu, chặn địch cho anh em rút hết, sau đó, khi rút còn đưa được cả thương binh ra an toàn.

Tạ Thị Kiều luôn luôn gương mẫu, xung phong đi đầu trong mọi công tác, tận tình gắn bó với nhân dân, doàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng đội, được quần chúng mến phục, tin yêu.

Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhì và 2 năm liền (1963 – 1964) là Chiến sĩ thi đua của quân khu.

Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Tạ Thị Kiều được Uy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng. Hương Quỳnh- sưu tầm

23 Vảy Gà Xấu Nhiều Người Chỉ Biết Lắc Đầu Không Chơi

Vảy gà xấu tồn tại song song với những vảy gà tài, vảy gà quý. Nhưng thay vì được bán với giá cao hoặc tự hào khi sở hữu thì nhiều sư kê lại không mấy thích thú với các vảy này. Họ cho rằng những vảy này là những chú gà không hay, không có đòn độc đòn cáo hạ gục đối thủ nhanh. Vì thế mà thường sẽ không nuôi hoặc nuôi thả cỏ hoặc làm thịt. Vậy những vảy gà chọi tốt xấu là như thế nào? Có nên nuôi hay không?

23 vảy gà xấu cân nhắc khi nuôi

Vảy gà khai hậu

Nằm phía đằng sau ngay bên dưới của phần đầu gối. Hệ thống vảy khai hậu này không được đánh giá cao bởi vị trí và sức đánh của chân gà. Người ta cho rằng những chú gà này không đá hay, không có đòn lối. Nhìn bên ngoài thì có vẻ dọa được người nhưng khi vào trận thì im thin thít. Thậm chí nhanh chóng bỏ chạy khiến gia chủ chỉ biết lắc đầu muối mặt.

Vảy đoản hậu

Những hệ thống vảy này không được bao quanh kín phần cựa gà. Vì thế chúng không được thêm sức mạnh hoặc có thể phế luôn phần cựa gà. Trong những trận đá gà đòn hay gà cựa thì chúng là một vũ khí quan trọng. Nhưng khi xuất hiện những vảy gà xấu này thì cựa có cũng như không. Vừa phải chấp bịt cựa, chấp bịt mỏ mà khả năng thắng lại không cao.

Vảy áp khẩu

Có thể thấy rõ những hàng vảy tạo thành 1 đường chạy từ đầu gối xuống ngón giữa của chân gà. Nhưng thay vì tiếp nối với ngón giữa chân gà thì chúng lại rẽ ra về phần ngón nội hoặc ngón ngoài. Các sư kê cho rằng như vậy chúng sẽ không có sự chắc chắn đáng kể với những cú đá. Mà đã không chắc chắn thì khả năng dành chiến thắng khó sảy ra.

Đây là một vảy gà chọi xấu gần như ít người nuôi nếu gặp phải. Họ cho thả cỏ hoặc nuôi làm gà phu, gà thịt.

Vảy song cúc

Nhận biets được vảy này bằng cách thấy 2 vảy nhỏ li ti xếp nối tiếp nhau thẳng vị trí cựa gà. Khi xuất hiện tại vị trí cựa gà cũng khiến cho gà không thể xuất được uy lực tốt nhất của cựa gà. Kìm hãm lực của những cú đánh. Nói chung vảy song cúc cũng không phải quá xấu nên nếu muốn vấn có thể nuôi và thử đòn đánh trước khi loại bỏ.

Vảy cán dưới

Nếu như bác nào nhớ kỹ những vảy gà hay có vảy vấn cán thì vảy gà xấu lại có cán dưới. Hình dáng của chúng là 1 vảy to dài nằm ở giữa cựa và bàn củ đế của gà. Những chú gà thường có tư chất kém nên rất khó để có thể phát huy được sức mạnh của mình. Đó là lý do có những con gà vần hơi, vần đòn nhiều nhưng vẫn không có đòn lối, yếu. Loại này thì chỉ có làm gà phu, gà thịt để ăn cho nhanh.

Vảy gà ém

Nhiều anh em sư kê nuôi gà nhận thấy rằng những chú gà vảy ém thường có tỉ lệ thua cao. Vì thế mà những con gà sở hữu vảy này thì không nên nuôi hoặc nuôi chơi nhưng không nên đem đi để độ làm gì cả. Đây là một vảy nhỏ nằm bên dưới của cựa. Nếu không nhìn kỹ rất dễ nhầm với vảy huyền trâm.

Vảy bát khai vuông

Đúng như tên gọi của chúng khi hệ thống 8 vảy hình vuông xếp gần lại với nhau. Nếu nghe qua loa thì chúng sẽ có thể nhầm với “vảy khai vương”. Ngay cả hình dáng của 8 ô vuông này cũng giống với chữ Vương. Những con gà chọi có hệ thống vảy này dù khỏe mạnh tinh tế như thế nào cũng rất khó cho việc sử dụng và chiến trận.

Vảy khai tiền

Vảy gà chọi xấu nữa không thể bỏ qua đó chính là những hệ thống vảy nằm ngay trên hàng thành của chân gà. Đặc điểm của vảy này là chúng bị nứt ra nên làm cho độ bền của chúng bị giảm đi rất nhiều. Vì thế trong những trận đấu dài hơi thì chúng bị yếu thế. Nếu không kết thúc được đối thủ sớm thì rất dễ bị thua vì đuối sức.

Vảy tứ hoành khai

Tên gọi của chúng bao gồm 4 vảy xếp gần với nhau. Kích thước nhỏ nên cũng cần tinh ý để xem và xử lý. Những vảy này phân bố bên dưới gối nên có thể khiến sức bền của gà kém. Dễ phạm phải sai lầm dẫn tới việc bị đánh đau hoặc mất mắt. Vì thế khi xem chân gà, vảy gà cũng nên tránh các vảy gà xấu này ra để đỡ mất công nuôi.

Vảy ấn hoành khai

Trải dài từ hàng thành qua hàng quách và càng nhỏ lại về phía hàng quách. Nhìn sơ qua thì có vẻ giống với vảy xiên đao nhưng không phải. Nhiều người cho chúng vào loại vảy xấu nhưng xấu như thế nào thì cũng không giải thích được.

Vảy chậu to củ lớn

Khi có 1 bàn chân lớn với hệ thống củ cũng kích thước lớn tương ứng chúng sẽ làm hệ thống vảy tại vị trí này to lên. Chưa biết chúng có đá hay hay không nhưng khi đó thì chúng cũng ảnh hưởng việc đi lại vì độ thăng bằng không có. Khi nhảy lên và tiếp đất nếu không có độ thăng bằng thì rất dễ ngã. Tạo điều kiện cho gà đối thủ tấn công.

Vảy gà xấu bể biên nội, bể biên ngoại

Nhiều người nhận thấy rằng chỉ có gà lai, gà chọi pha mới có hệ thống vảy này. Chúng mất đi phần nào sức mạnh và sự thuần chủng trong dòng máu và lối đánh của chúng. Không còn quá hăng máu nữa mà thay vào đó là lối đá chạy kiệu, chạy xe. Kết hợp với đó là sự chống chịu đòn kém. Không thể đủ thể lực tham gia những trận đấu dài hơn được. Vì thế không nên nuôi những con gà này.

<ĐANG UPDATE)

Vảy gà xấu có nên nuôi hay không?

Nếu đang băn khoăn khi mình sở hữu 1 chú gà như vậy thì cũng đừng nên quá lo lắng. Việc gà có vảy xấu thì là chuyện hết sức bình thường. Chúng không quyết định nhiều tới việc gà có đá hay hay không hoặc là gà tài hay không? Đó chỉ là xem và nhận định ban đầu của chúng ta mà thôi. Việc quan trọng nhất là nhìn thấy được những ưu điểm trong hệ thống đòn đánh của chúng qua những lần tập luyện. Từ đó quyết định chăm sóc và tập luyện sao cho hoàn hảo nhất.

Gà có vảy xấu chưa chắc không hay và gà có vảy quý cũng chưa chắc đá hay. Đó là điều đơn giản mà bất cứ ai cũng có thể nhận ra được. Đừng vội thấy gà xấu mà loại bỏ không nên nuôi. Quan trọng nhất không phải là xấu hay đẹp mà chúng có đòn lối hay hay không? Gà vảy đẹp cựa đẹp mà không đá hay thì cũng không làm nên điều gì cả. Vì thế hãy thử đòn lối trước rồi hãy quyết định. Hay thì nuôi tiếp còn không hay thì thịt cũng được ăn càng ngon.

Bạn đang xem bài viết Cuộc Kháng Chiến Bắt Đầu (23/10/1945 trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!