Cập nhật thông tin chi tiết về Đặc Điểm Giống Gà Tây Nội Ở Việt Nam mới nhất trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đăng ngày: 09/01/2014 09:18
Gà Tây nội có ngoại hình đẹp, khối lượng cơ thể và trứng lớn, tỷ lệ nở cao, chất lượng thịt thơm ngon. Nhưng khả năng chống chịu kém với bệnh tật và thời tiết khắc nghiệt
Gà tây nội được thuần hoá ở Mêxicô từ thế kỷ thứ XIII, về sau được phát triển nhiều ở Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Á.
Ở Việt Nam cho đến nay chưa biết xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết nhiều thập kỷ qua chúng được nuôi nhiều ở một số huyện: Ân Thi, Phù Cừ, Khoái Châu… của tỉnh HưngYên, huyện Hoài Đức, Thường Tín , thị xã Hà Đông của tỉnh Hà Tây, huyện Thuận Thành – Hà Bắc…
Đặc điểm ngoại hình: thân hình cao to hơn các loại gà nội, lông có 3 loại màu: Màu đen, màu đồng (giống như đồng thau), màu trắng, nhưng màu đen vẫn chiếm đa số, chân đen, da trắng, da đầu gà trống, Mỹ gà mái màu xanh xám. Gà tây trưởng thành, con trống mào phát triển chảy xuống đến mỏ, hoặc quá mỏ , da cổ phát triển thành yếm màu đỏ, lúc dính nhau hoặc đạp mái mới chuyển thành màu xanh tím, đối với con mái mào và yếm kém phát triển. Rau cỏ là nguồn thức ăn chủ yếu của gà tây nội địa.
Gà thịt ( lúc 28 tháng tuổi ) gà mái có khối lượng ống trung bình 3000g, gà trống 5155g. Khả năng sinh sản, tuổi đẻ quả trứng đầu tiên trung bình 227 ngày, năng suất trứng 47 – 53 quả/ mái/ năm khối lượng trứng trung bình 68 – 227 ngày, năng suất trứng 47 – 53 quả/ mái/ năm. Khối lượng trứng trung bình 68 – 69 g/ quả. Gà mái ấp 18 – 23 quả/ lứa: Tỷ lệ có phôi cao: 91 – 92%, tỷ lệ nở bình quân 95 – 96%/ trứng ấp. Gà Tây bố mẹ sinh sản có thể sử dụng tối đa 2 – 3 năm (Theo tài liệu quỹ gen vật nuôi, 1999), ( Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận – 2003).
Gà Tây nội có ngoại hình đẹp, khối lượng cơ thể và trứng lớn, tỷ lệ nở cao, chất lượng thịt thơm ngon. Nhưng khả năng chống chịu kém với bệnh tật và thời tiết khắc nghiệt. Thích hợp với điều kiện chăn nuôi chăn thả và bán chăn thả ở nước ta. Đây là giống gà kiêm dụng, nuôi vừa sản xuất thịt, vừa lấy trứng. Ngoài ra còn được dùng để lai với các giống gà địa phương.
→ TẢI TÀI LIỆU
Các Đặc Điểm Giống Gà Rừng Việt Nam
Gà rừng Việt Nam (Danh pháp khoa học: Gallus gallus jabouillei) là một phân loài của loài gà rừng lông đỏ Gallus gallus). Ở Việt Nam phân loài gà rừng Gallus gallus jabouillei này, còn được gọi đơn giản là gà rừng, có mặt nhiều tại các tỉnh miền núi. Chúng là đối tượng chim săn bắn lấy thịt, hiện nay chúng cũng được ưa chuộng để nuôi làm gà kiểng. Mô tả
Gà rừng Việt Nam là phân loài chim lớn, cánh dài 200-250mm, nặng 1-1,5 kg. Chim trống có lông đầu, cổ màu đỏ da cam, lưng và cánh đỏ thẫm, ngực bụng và đuôi đen. Chim mái nhỏ thua chim đực và toàn thân màu nâu xỉn. Mắt nâu hay vàng cam. Mỏ nâu sừng hoặc xám chì. Mỏ thịt đỏ. Chân xám nhạt. Nhìn bề ngoài, gà rừng đẹp mã, lông đỏ, chân chì, cựa dài nhọn, đôi tai trắng phau. Gà rừng trưởng thành cân nặng khoảng 8 lạng, dáng dấp thon gọn và nhanh nhẹn. Gà rừng thường bị bệnh hô hấp vào mùa mưa
Có những con gà rừng có tai trắng, chân chì với màu lông tía sặc sỡ. Gà rừng khác gà ta ở nhiều chi tiết như lông gà rừng có màu sắc rực rỡ hơn, đẹp hơn, chân màu đen, tích trắng, mồng lá nhỏ. Phổ biến nhất trong các loại gà rừng đang được nuôi làm gà kiểng là gà đỏ với tai trắng, màu lông sặc sỡ, cựa nhọn, dáng thon. Con đực khi trưởng thành có sải cánh dài 20-25 cm, màu lông đỏ tía, nặng từ 1 đến 1,5 kg, trong khi con cái chỉ có màu lông nâu xỉn và kích thước nhỏ bé hơn
Thành phần dinh dưỡng trong thịt gà rừng thấy có chứa 24,4% protid, 4,8% lipid, 14 mg% Ca, 263 mg% P, 0,4 mg% Fe và một số vitamin. Thịt có vị ngọt, tính ấm. Theo kinh nghiệm dân gian, thịt gà rừng được dùng chữa chứng xích bạch đới, tả lỵ lâu ngày, suy yếu sinh lý dưới dạng nấu ăn, thịt gà rừng có thể Chữa ngộ độc nhãn rừng, Chữa gân xương đau mỏi, chân tay run rẩy là chân gà (hay nhất là chân gà trống) và Sơn kê là tên dược liệu của thịt và chân gà rừng
Tập tính
Gà rừng sống định cư và ở trong nhiều loại rừng. Môi trường sống thích hợp là rừng thứ sinh gần nương rẫy hay rừng gỗ pha giang, nứa. Sống đàn hoạt động vào 2 thời điểm trong ngày như sáng sớm và xế chiều. Buổi tối gà tìm đến những cây cao dưới 5m có tán lớn để ngủ. Gà thích ngủ trong các bụi giang, nứa, có nhiều cây đổ ngang. Mùa sinh sản của gà rừng bắt đầu vào tháng 3. Vào thời kỳ này gà trống gáy nhiều lúc sáng sớm và hoàng hôn. Một con đực đi với nhiều con mái. Tổ làm đơn giản, trong lùm cây bụi, Mỗi lứa đẻ 5 -10 trứng, ấp 21 ngày. Con non đẻ ra khoẻ.
Gà rừng rất tinh khôn, chỉ cần một tiếng động nhẹ là chúng bay đi chứ không bao giờ bén mảng đến chỗ nguy hiểm nữa. Chúng nhút nhát nhưng khôn lanh, dường như đánh hơi được bẫy, thấy là tránh xa. Tổ gà rừng rất khó tìm, chúng thường đẻ trứng ở bãi cỏ rậm rạp và ngụy trang kín đáo.
Từ môi trường tự nhiên thành môi trường nuôi ở nhà rất khó đối với gà rừng. Để quen với cách nuôi thả vườn, ban đầu người nuôi gà nhốt từng lồng riêng sát bìa rừng, sau đó mới thả rông. Thức ăn chính là côn trùng, sau đó rồi tập ăn dần cho gạo, cám, cỏ và thóc.
Tập tính ăn
Gà rừng ăn các loại quả mềm như quả đa, quả si, hạt cỏ dại, cây lương thực, thóc ngô, các loài động vật nhỏ, mối, kiến, giun đất, châu chấu, nhái… Trong điều kiện nuôi nhốt, thức ăn cho chúng khi còn nhỏ là cám công nghiệp, khi lớn lên chủ yếu là lúa, ngoài ra là bắp, đậu xanh. Nhìn chung, thức ăn chủ yếu cho gà rừng là cỏ, côn trùng và thóc
Ngoài ra, nguồn thức ăn chính của gà rừng còn có thể kể đến là mối. Mối giàu protein giúp gà hấp thụ chất dinh dưỡng tốt, lớn nhanh. Ngoài thức ăn tự nhiên, trong khi nuôi nhốt còn thực phẩm công nghiệp như bột cám, bắp xay, rau, tép khô cho gà ăn bổ sung. Gà rừng có sức đề kháng cao, ít bệnh, tuy nhiên vì đặc tính hoang dã nên khi còn nhỏ, nhất là trong vòng 15 ngày tuổi, người nuôi gà có khi phải tập cho gà ăn trên tay để thuần hóa
Gà rừng lai trưởng thành có trọng lượng từ 0,8 – 0,9 kg/ con, con nào có sắc lông đẹp thì làm cảnh, con nào ít đẹp hơn thì bán thịt. Một số nơi, gà cảnh có giá 500.000 đồng/con, gà thịt có giá 150.000 – 200.000 đồng/con[9] Vì gà rừng cảnh thường là con trống với bộ lông tía sặc sỡ, tai trắng, cựa nhọn, chân chì và thon lại gáy hay nên dễ hấp dẫn dân chơi. Giá gà rừng đỏ khá cao, loại thuần chủng, trưởng thành và đã quen nuôi nhốt thường được chào bán từ 600.000 đồng đến một triệu đồng/con, giá gà mái rẻ hơn gà trống. Gà đang trong giai đoạn sinh sản sẽ có giá khoảng 1,6 triệu đồng/cặp. Riêng gà rừng mới bẫy chưa thuần hóa có giá cao hơn hẳn, thông thường là 1,2 triệu đồng với một con mái và 1,5 triệu đồng với một con trống.
Với dân chơi gà rừng cảnh, gà chỉ được nuôi bằng thức ăn tự nhiên như cỏ, côn trùng và thóc, trong khi gà rừng nuôi thịt có thể hấp thụ cả thức ăn công nghiệp như cám gạo, ngô xay nhuyễn hoặc thức ăn tổng hợp. Gà nuôi lấy giống hoặc làm cảnh thường chỉ ghép cặp 2 mái và một trống để tăng độ thuần, còn gà nuôi lấy thịt ghép cặp tới 12 mái -1 trống. Vóc dáng nhỏ bé nhưng thịt chắc, giá trị dinh dưỡng cao khiến gà rừng lấy thịt vẫn mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi, dù giá không bằng gà nuôi giống hoặc làm cảnh. Gà lấy thịt thường có trọng lượng dưới 1,3 kg, giá gà trống thịt 250.000 – 300.000 đồng/con, gà mái 180.000 – 250.000 đồng/con. Nhiều nhà hàng, quán ăn đã thu hút thực khách với món gà rừng, chim trĩ, chúng đều được nuôi từ những nhà vườn.
Mức độ thuần của gà rừng đỏ dựa trên màu sắc chân, số lông đuôi và chiều dài mình. Thông thường những con có màu chân xanh đá là giống thuần chủng, gà lai có chân màu xám. Gà rừng thuần chủng có thân hình thanh hơn, mào nhỏ và lông đuôi thưa với tối đa 2 cọng lông đuôi cong chính và khoảng 4 lông đuôi cong phụ mỗi bên. Ngược lại, gà lai có đuôi lớn, thân hình vạm vỡ hơn hẳn. Nhút nhát, khó nuôi và không dễ tìm được cá thể thuần chủng nhưng dân chơi gà cảnh vẫn sẵn sàng chi để sở hữu một con gà rừng Việt hiếm có. Gà rừng đỏ thường được cung cấp từ các đầu mối tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
BiotechVET tổng hợp heo Wikipedia
Các Giống Gà Tre Lai Ở Việt Nam Và Đặc Điểm Của Chúng
Từ lâu, gà tre là một giống gà được nuôi phổ biến ở Việt Nam. Hiện nay, ngoài các giống gà tre bản địa, các giống gà tre lai càng ngày càng phong phú hơn. Mỗi giống gà tre đều có những đặc điểm rất khác biệt. Theo dõi bài viết sau để tìm hiểu về các giống gà tre lai hiện có ở Việt Nam.
Nguồn gốc các giống gà tre lai ở Việt Nam
Các giống gà tre thuần chủng của Việt Nam không hề ít. Tuy nhiên, cùng với các mục khác như làm cảnh hay đá gà, gà tre đang ngày càng được lai tạo thành các giống gà tre mới.
Bởi vậy, nếu nói đến nguồn gốc của các giống gà tre ở Việt Nam hiện nay thì rất khó để xác định. Vì chính xác hơn, chúng là đời con lai từ gà thuần chủng và các dòng gà nhập khẩu khác.
Hiện nay, trên thị trường Việt Nam có 4 giống gà tre phổ biến nhất gồm gà tre Tân Châu, gà tre Mỹ, gà tre Thái, gà tre Serama.
Đặc điểm các giống gà tre lai ở Việt Nam
Các giống gà tre phổ biến trên thị trường Việt nam bao gồm gà tre Tân Châu, gà tre Mỹ, gà tre Thái, gà tre Serama. Mỗi loại lại có đặc điểm riêng biệt và nổi bật.
Gà tre Tân Châu
Gà tre Tân Châu là giống gà cảnh có nguồn gốc Việt Nam. Cụ thể là thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Đây không phải là giống gà tre thuần chủng. Nói chúng có nguồn gốc Việt Nam bởi gà tre Tân Châu được lai tạo với gà tre bản địa với gà Nhật Bản.
Gà Tân Châu rất được ưa thích để làm cảnh. Bởi chúng có bộ lông dày, mịn màng, che kín toàn thân. Lông cổ là phần nổi bật nhất của gà Tân Châu. Bởi phần lông cổ mềm, mịn, dày, dài che kín từ dưới tai xuống đến giữa lưng gà.
Phần lông mã lưng lại mềm và suông dài chạm đất. Bộ lông đuôi nhiều, phân bố thành nhiều lớp, bản lông khá rộng. Lông đuôi phía trên dài cong xuống mặt đất, lông đuôi cao không quá đầu.
Gà tre Tân Châu được nuôi làm cảnh phổ biến trên toàn quốc. Đặc biệt đây là giống gà được lai tạo ở Việt Nam nên rất thích hợp với điều kiện thời tiết. Chúng dễ nuôi và dễ chăm sóc hơn rất nhiều giống gà khác.
Gà tre Mỹ
Mặc dù có cái tên là gà tre Mỹ. Thế nhưng gà tre Mỹ ở Việt Nam lại không phải giống thuần chủng. Chúng đã được lai tạo với dòng gà khác như gà peru, gà asil, gà rừng.
Giống gà tre này được nuôi làm cảnh và cũng được nuôi làm gà đá. Gà tre Mỹ được nhiều người ưa chuồn bởi chúng có thân hình thon gọn, bộ lông màu sắc sặc sỡ và hoàn toàn khác biệt so với những giống gà cảnh khác.
Tuy nhiên, bản tính của chúng lại hung hăng, máu chiến, bo đá lớn và rất tốc độ. Bởi vậy, gà tre Mỹ cũng được sử dụng làm gà đá.
Gà tre Serama
Serama là giống gà tre có kích thước và khối lượng nhỏ bé. Hình dáng của chúng rất đặc biệt. Với bộ ngực nở nhô hết cỡ về phía trước, dáng đứng thẳng, cánh thẳng chạm đất che phủ gần hết chân và bộ lông đuôi thẳng đứng gần chạm mồng gà.
Gà serama là giống gà của người Malaysia, là biểu tượng của đất nước với dáng đứng thẳng như những chiến binh dũng cảm.
Gà tre Thái
Gà tre Thái là giống gà tre có nguồn gốc Nhật Bản. Tuy nhiên, chúng lại được nuôi thành công và phổ biến ở Thái Lan. Giống gà tre này có hình dáng khá giống với gà tre Serama.
Chúng có bộ lông rất đẹp. Lông gà tre Thái dày và dài, lông đuôi rộng, cặp lông phụng chủ phải hơi cong như hình lưỡi kiếm.
Đặc Điểm Giống Gà Tây ( Gà Lôi)
Gà trưởng thành 28-30 tuần tuổi có thể đạt 5-6 kg/con trống và 3-4 kg/con mái và bắt đầu đẻ trứng. Gà tây tự ấp, mỗi lứa đẻ 10-12 quả, trọng lượng trứng 60-65 g/quả, thời gian ấp nở 28-30 ngày, tỷ lệ ấp nở 65-70%, tỷ lệ nuôi sống 60-65%, sản lượng trứng 70-80 quả/mái/năm…
Gà tây có nhiều ưu điểm: có khả năng sử dụng tốt các loại thức ăn thô xanh, tiết kiệm được lương thực, có thể trọng lớn, thời gian tăng trưởng dài, phẩm chất thịt ngon, chất lượng tốt, tỷ lệ protein cao (trên 22%), tỷ lệ mỡ rất thấp (dưới 0,5%).
Gà tây có nguồn gốc từ Bắc Mỹ. Có lẽ người Pháp và người Ấn Độ đã đưa nó vào Việt Nam từ thời họ đặt chân đến nước ta. Thời đó, dân ta không mặn mà với gà tây vì chê thịt gà tây nhạt, không thơm ngon. Người ta nuôi gà tây chủ yếu là để cho “tây” ăn. Thế nhưng gần đây, một mặt “tây” vào Việt Nam ngày càng đông nên yêu cầu về gà tây cũng tăng lên. Mặt khác, dân ta cũng bắt đầu thích ăn gà tây. Nhiều đám cưới, đám lễ đã sử dụng gà tây làm “chủ lực” để xếp cỗ. Thịt vài con thì cả làng ăn đủ!
Gà tây rất dễ nuôi. Nó hiền lành và chăm kiếm mồi. Món “khoái khẩu” của gà tây lại là cỏ. Thực ra, nó ăn nhiều loại cỏ, lá khác nhau. Ở Hưng Yên, nguồn rau xanh chủ yếu cho gà tây lại là bèo Nhật Bản. Họ băm bèo ra cho nó ăn. Thế thì khác gì lợn! Ấy vậy mà nó lại ăn ngon lành. Mới biết, các vùng trung du, miền núi, các nơi nhiều cỏ lác mà đưa gà tây vào nuôi thì thuận lợi biết bao.
Thức ăn của gà tây cũng giống như gà ta. Nó cũng ăn ngũ cốc, đậu đỗ, cám bã. Ngoài ra, nó ăn tới 30-40% là rau xanh, cỏ lác. Vì vậy, người nuôi gà tây thường chăn thả trên những bãi cỏ, những cánh đồng hoặc nuôi nhốt trong những sân chơi rộng. Điều quan trọng là nó cần nơi cao ráo, thoáng mát, không ẩm thấp. Nó rất sợ tiết trời âm u, ướt át, lạnh lẽo. Kiểu thời tiết đó rất dễ sinh bệnh. Ta không cho gà ra ngoài vào những lúc đó.
Gà tây chỉ khó nuôi ở giai đoạn từ 3 tháng tuổi đổ lại. Thời gian này ta cần đầu tư đủ thức ăn, tiêm phòng theo đúng lịch, giữ ấm cho gà và đảm bảo cho chuồng nuôi thông thoáng, sạch sẽ, ấm áp.
Sau 3 tháng tuổi, nuôi chúng dễ hơn nhiều. Chúng ăn khỏe, lớn nhanh và ít bị bệnh tật. Gà tây nuôi 6-7 tháng thì bán tốt. Tùy từng giống (gà tây đen, gà tây trắng hoặc gà tây lông màu đồng) mà trọng lượng của chúng có thể đạt từ 10-20kg/con. Con đực bao giờ cũng lớn hơn con cái. Giá thịt gà tây cũng khá cao, từ 90.000-120.000 đồng/kg. Như vậy, một con gà tây cũng có thể bán được cả triệu bạc. Trừ chi phí đi, mỗi con cũng lãi vài trăm nghìn. Bà con thường nuôi mỗi đàn vài trăm con. Tiền thu được đâu nhỏ.
Bạn đang xem bài viết Đặc Điểm Giống Gà Tây Nội Ở Việt Nam trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!