Cập nhật thông tin chi tiết về Gà Chọi Việt Nam, Nguồn Gốc Và Phân Loại Gà Chọi Việt mới nhất trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Gà chọi hay gà đá là những giống gà hiếu chiến, thường nuôi để chọi, đá. Gà chọi ở Việt Nam có hai loại chính là gà đòn và gà cựa. Gà đòn thường được nuôi ở khu vực phía Bắc, Trung; gà cựa được nuôi nhiều ở phía Nam.
Phân loại gà chọi
Gà đòn có trọng lượng chừng 2,8 kg – 4,0 kg. dùng đòn chân để đánh gà đối phương đến khi thắng. Gà nòi đòn là giống gà trụi cổ và là giống gà cổ xưa. Chân cao, cốt lớn dùng để đá chân trơn, hoặt bịt cựa, đây là giống gà tổ tiên cũa dòng gà chọi. Gà đòn có thể trạng khá lớn so với các dòng gà khác, Gan lỳ và dũng mãnh, tuy không nhanh nhen như dòng gà nòi cựa, nhưng đòn đá rất mạnh.
Gà cựa thường thấy chủ yếu nuôi ở khu vực phía Nam, gà được đá có cựa nguyên hoặc là cựa bằng kim loại gắn vào chân. Gà cựa thường có trọng lượng khoảng 3kg. Đá gà cựa là một hình thức sát phạt, người ta thường mua cựa sắt tra vào chân gà hoặc chuốt cựa gà thật bén. Chơi gà cựa thiên về ăn thua, không chiêm ngưỡng được tài nghệ của gà. Gà nòi cựa hay còn gọi là gà nòi, nhưng để phân biệt với giống gà nòi của Miền bắc, nên có nhiều nơi người ta gọi là gà cựa, hay gà nòi cựa.
Gà chọi (gà nòi) miền Bắc
Nguồn gốc và sự phân bố các loại gà chọi ở Việt Nam
Đã có khá nhiều tranh cãi về nguồn gốc gà nòi Việt Nam. Có những gà nòi Việt Nam đã đựơc thuần hoá cách đây 8000 năm tại Đông Nam Á trong một khu vực phạm vi bao gồm Thái Lan và Việt Nam, nơi mà ngày nay loại gà rừng đỏ hiện đang sinh sống.
Qua quá trình lai tạo và chọn giống, ở Việt Nam có một số giống gà nòi nổi tiếng được những người đá gà yêu chuộng. Miền Bắc có gà Thổ hà (Bắc Giang) Đồ Sơn (Hải Phòng), Nghi Tàm, Nghĩa Đô, Vân Hồ (Hà Nội) ngoài ra tại đa số các tỉnh như Bắc Ninh, Thái Nguyên, Phú thọ, Sơn La, Đô Lương – Nghệ An đều có các dòng gà nòi riêng.
Miền Trung có nhiều lò gà tên tuổi: Ninh Thuận có gà Phan Rang; Khánh Hoà có gà Vạn Giã, Gò Dúi; Quảng Ngãi có gà Sông Vệ, Sa Huỳnh, đặc biệt ở Bình Định nổi tiếng gà đòn, thế. Nếu đá gà liên tỉnh, các nơi gặp gà chọi Bình Định phải thận trọng. Bình Định có nhiều lò gà nổi danh: Hoài Nhơn có gà Hoài Châu, Kim Giao (Hoài Hải); Hoài Ân có gà Mộc Bài (Ân Phong); Phù Cát có gà Cát Chánh; Tuy Phước có gà Gò Bồi; Quy Nhơn có gà Phú Tài, đặc biệt Tây Sơn có gà Bắc Sông Kôn (dòng gà Nguyễn Lữ lưu truyền).
Miền Nam có gà Chợ Lách (Bến Tre), gà Cao Lãnh (Đồng Tháp), gà Châu Đốc (An Giang), gà Bà Điểm. Tuy nhiên ở miền Nam chủ yếu đá gà cựa.
Gà cựa miền Nam
Gà nòi Chợ Lách có những độc đáo riêng. Thời trước ở Chợ Lách đã có những trường gà chơi “chọi gà nghệ thuật”. Với điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi và hết sức đặc thù nên nghề nuôi gà nòi đã xuất hiện nơi này từ khá lâu. Chợ Lách cũng là một trong những nơi giữ được nguồn gien của các giống gà nòi quý hiếm. Để tạo ra gà giống tốt thì vấn đề quan trọng là phải biết chọn gà mái chất lượng, đi kèm với gà trống tuyệt hảo để lai tạo. Gà mái phải có ngoại hình khỏe mạnh, hung hăng để di truyền tính mạnh mẽ sang đàn con, còn gà trống thì phải có thể chất tốt, gan lỳ, chịu đòn và tránh đòn nhanh lẹ.
Gà Nòi Việt Nam (Phần 1): Tìm Hiểu Nguồn Gốc
Gà nòi Việt Nam
Xuất Xứ gà nòi Việt Nam
Không ai biết gà nòi Việt Nam có nguồn gốc từ đâu. Xuất xứ khởi thủy của nó không thể truy cứu được vì thiếu tài liệu. Hơn nữa, nước Việt phải trải qua một cuộc nội chiến kéo dài 30 năm khiến hàng triệu người phải bỏ mình, nhà cửa tan nát lại càng khiến cho các tài liệu gà nòi khác đều khan hiếm.
Nghệ thuật đá gà ở Việt Nam là một truyền thống văn hoá lâu đời đã đựơc ghi chép cách đây ít nhất là 700 năm. Có thể Việt Nam là quốc gia duy nhất có giống gà nòi đòn trụi cổ, mặt mũi bặm trợn như thường thấy vì giống gà này không có xuất xứ từ những quốc gia khác. Trong những thập niên gần đây, gà nòi đã được xuất cảng qua các quốc gia láng giềng như Thailand, Indonesia, và Malaysia.
Những người Việt hiện sinh sống ở Hoa Kỳ cũng đã đem đựơc trứng gà nòi qua đây và ấp nở thành công. Ngoài ra, chỉ có một nơi duy nhất có giống gà nhìn không khác gì gà nòi, đó là đảo Reunion Island.
Tài liệu này cho biết gà nòi Việt Nam đã đựơc thuần hoá cách đây 8000 năm tại Đông Nam Á trong một khu vực phạm vi bao gồm Thái Lan và Việt Nam, nơi mà loại gà rừng đỏ hiện đang sinh sống ngày nay.
Định Nghĩa
Theo pho tự điển “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” của tác giả Hùynh Tịnh Của (Quyển II, bản in năm 1896 – trang 155) thì chữ “Nòi” có những nghĩa sau:
Nòi = dòng, giống. Gà Nòi = Gà người ta nuôi cá độ, chính là giống gà tốt. Rặt Nòi = thật giống, thật nòi, không lộn lạo, chính là một máu một thịt, không phải chạ. Để Nòi = Để nối sinh Nòi Ăn Cướp = Quân ăn cướp, con cháu kẻ cướp.
Tự Điển Gustave Hue, xuất bản năm 1937 ghi: Lấy Nòi = Gây giống, cho nhảy đực Giữ Phường Nòi = Giữ giống dòng Tự Điển DICTIONNAIRE ANNAMITE-FRANCAIS soạn thảo bởi Génibrel, J-F-M xuất bản năm 1898 cũng có những định nghĩa tương tự.
Danh từ gà nòi Việt Nam được dùng để gọi chung cho cả gà nòi đòn lẫn gà nòi cựa. (thường đựơc gọi tắt là gà đòn và gà cựa)
Gà Đòn Gà đòn
Gà đòn là loại gà cổ trụi, chân cao, cốt lớn dùng để đá chân trơn hoặc bịt cựa. Gà đòn được chia ra hai loại rõ rệt. Đó là loại gà mã lại (còn gọi mã mái) và gà mã chỉ.
Cựa của một con gà đòn 9 tháng tuổi.
Đặc Điểm Chung
Gà không cựa Gà đòn thường được sách vở mô tả là loại gà chân trơn, không cựa, hoặc cựa mọc không dài, cựa vừa lú như hạt bắp. Gà này lớn con được dùng theo thuật đá đòn bịt cựa. Danh từ “gà đòn” phát xuất từ miền Trung đựơc dùng để gọi riêng loại gà đá đòn bằng quản và bàn chân. Ngày nay danh từ gà đòn đã được công chúng dùng một cách rộng rãi để gọi chung các loại gà nòi đấu ở trường gà đòn trong đó có những loại gà miền nam có cựa dài và biết xử dụng cựa.
Ở miền Trung, đá gà là thú tiêu khiển của người lam lũ, khi hết mùa đồng áng mới bắt tay vào việc chơi gà. Bởi lẽ tiền bạc khó kiếm nên dân miền trung thích chơi gà đòn, – một độ dầu ăn hay thua cũng kéo dài suốt mấy giờ đồng hồ, có khi suốt ngày. Vì chuyên về gà đòn nên dân miền Trung tuyển chọn cản gà khiến gà bị nín cựa, mọc chậm và ngắn. Nếu con nào có cựa mọc dài cũng sẽ bị cưa hoặc mài ngắn. Khi cựa mới lú cũng bị chủ gà bấm cựa khiến cựa bị tầy đầu, không lú ra đựơc.
Nói chung thì lối đá của gà đòn khác hẳn gà cựa. Gà đòn dùng quản và bàn chân để quất. Gà cựa thì dùng cựa để đâm. Cựa của gà đòn có gốc to và mọc rất chậm so với gà cựa. Gà đòn chín tháng tuổi thì cựa cũng chỉ bằng hạt bắp.
Gương mặt bặm trợn
Đầu và diện mạo Xương sọ gà nòi lớn hơn gà thường, đỉnh đầu của xuơng thường lớn bản và bằng. Mặt gà rộng bản với xuơng gò má nhô cao. Vì được gần gũi và chăm sóc bởi chủ kê nên gà nòi có những đặc tính tâm lý rất khác biệt với các lọai gà khác, chẳng hạn khi được chủ kê cho ăn hay tắm rửa, khuôn mặt gà nòi biểu lộ nét thỏai mái và tự tin, khi có người lạ đến gần gà nòi sẽ ngóng cao đầu và nghiêng mặt, trố mắt tò mò theo dõi nhìn, khi đối diện một con gà khác đôi mắt sẽ gườm lên thách thức so tài. Khi lâm trận thì mắt gà nòi lộ sát khí.
Da cổ nhăn dày và xếp lớp
Cổ lớn, da dày và nhăn Cổ gà nòi lớn và trông rất mạnh bạo với một chiều dài vừa phải, xương cổ rất cứng cáp và các khớp xương gắn bó đều đặn và rắn chắc. Lớp da ở cổ gà nòi được xếp lớp theo hình sóng dợn. Những người xa lạ với gà nòi thường thắc mắc đặt câu hỏi: “gà nòi trụi lông cách tự nhiên hay bị hớt ?” Câu trả lời không đơn giản vì còn tùy thuộc vào loại gà. Có những lọai gà nòi trụi lông cổ tự nhiên hoặc có rất ít lông nhưng cũng có những lọai có lông phủ đầy mình. Thông thường thì gà nòi trơ trụi cho đến khi được 1 tuổi nếu được nuôi ở những nơi có thời tiết và khí hậu nóng ấm như Việt Nam. Lông ở cổ và đùi có thể sẽ không mọc lại được trong lần thay lông của mùa sau. Các tay chơi gà thường om và vào thuốc tẩm làm cho lớp sừng (da trên mặt) và lớp biểu bì săn chắc lại khiến cho các chân lông bị khô khiến lông khó mọc lại. Gà nòi đã được mang qua Hoa Kỳ nuôi và chúng đã dần dà phát triển bộ lông đầy đủ để thích nghi với khí hậu lạnh. Gà nòi nơi đây thường có bộ lông đầy đủ hoặc chỉ trụi chút đỉnh ở phần cổ khi được 9 tháng tuổi.
Gà 10 tháng tuổi trụi lông tự nhiên.Hình bên cạnh là một con gà xám tơ 10 tháng tuổi. Đầu, cổ, và đùi còn trụi lông tự nhiên vì gà còn tơ.
Chân và vảy Chân gà nòi Việt Nam thường có hai hàng vảy với đường đất chạy hình chữ chi ở giữa hai hàng vảy. Gà nòi với ba hay bốn hàng vảy thường rất hiếm. Có sách ghi rằng gà ba hàng vảy tuy đá nhanh đòn nhưng đòn không mạnh.
Trong khoảng hơn ba thập niên qua, các tay chơi gà ở miền Nam thường không thích gà nòi có chân màu vàng, lý do là màu chân vàng là màu của gà thịt, một lọai gà Tàu hay gà Bắc Thảo nuôi để lấy thịt. Ngày nay lọai gà chân vàng tuy chưa được ưa chuộng một cách rộng rãi nhưng cũng đã được dần dà chấp nhận trong giới mộ điệu chơi gà.
Mắt ếch
Mắt ếch Nếu gà nòi có mắt lớn thì không thích hợp cho các trận đá nhưng gà có mắt lồi như mắt ếch thì lại khác. Gà mắt ếch có đặc điểm lanh lợi và linh động khi ra trận. Nếu gà nòi mắt ếch mà có màu chân xanh thì được xem là hợp cách rất qúy. Các tay chơi gà thường truyền tụng câu ca dao:
“Chân xanh mắt ếch đánh chết không chạy” Những Đặc Tính Khác của gà nòi Việt Nam
Đùi: Nở nang và thường dài hơn phần quản
Chân: Tương đối cao. Loại chân vuông hoặc tam giác thường đựơc các sư kê ưa chuộng.
Mình: Rắn chắc và dài đòn. Phần bụng nhỏ và không phát triển.
Da: Dày và đỏ.
Thịt: thịt gà nòi là lọai có cơ bắp lớn nở nang do năng vận động và tập luyện. Chính vì thế mà thịt gà nòi trở nên dai, phải “hầm” lâu hơn gà thường mới ăn được !
Xương: gà nòi có bộ xương rất lớn và nặng ký do đó cần có thời gian lâu cho gà phát triển. Trung bình hơn 1 năm gà nòi mới đủ thể lực và cứng cáp để có thể ra trường.
Đuôi: đuôi gà nòi ngắn, lông ống cứng có hình cánh quạt để chống đỡ khi nhảy, té. Gà có lông “Mã chỉ” thường có thêm lớp lông vũ phủ thêm bên ngòai lớp lông ống.
Cựa: Loại cựa đơn là thông thường nhất. Tuy nhiên có lọai gà nòi có từ 2 đến 6 cựa chột như đầu đinh nơi chân được gọi là gà “Nhị Đinh”, “Tam Đinh”,… “Lục Đinh”. Đây là những lọai gà nòi giòng khác biệt. .
Bộ Lông: Lông rất thưa thớt ở phần đầu, cổ và đùi. Lông cứng, dòn và dễ gãy. Gà nòi có nhiều sắc lông chính như xám, ô, nhạn, điều và vàng. Các con gà có sắc lông pha trông rất rực rỡ và đẹp mắt như xám son, ô điều (tía), chuối và ó.
Trọng lượng: gà nòi có trọng lượng từ 6 tới 11 pounds (khoảng 2.8 kg tới 5 kg)
Tiếng gáy: Gà nòi không gáy nhiều như các lọai gà tre, gà Thái hay gà Tàu. Tiếng gáy của gà nòi trầm hùng.
Tánh nết: Đặc tính của gà nòi là can đảm, lì lợm và bất khuất. .
Địa điểm: Gà nòi đòn nổi tiếng hiện nay được nuôi nhiều ở các tỉnh miền Trung như : Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đà Nẵng và nhiều vùng cao nguyên. Gà nòi cũng được phát triển rộng rãi các tỉnh, vùng ngòai Bắc như : Lạng Sơn, Bắc Giang (tỉnh Hà Bắc cũ), Hà Nội, Nam Định,vv… Trong miền Nam gà nòi được biết nhiều qua các địa danh như : Bà Rịa, Đồng Nai (Biên Hòa), Sàigòn, Bà Điểm, Long An, Cao Lãnh,v.v,…
Gà Cựa
Gà cựa là lọai gà nhỏ và nhẹ hơn với bô lông phát triển đầy đủ và có cựa bén nhọn và dài. Gà cựa phát xuất từ miền Nam và được đa số người miền Nam yêu chuộng đá gà theo lối gà cựa. Nghệ thuật chơi gà cựa không được phổ thông ngòai miền Trung Phần và Bắc Phần. Theo truyền thống xa xưa thì gà cựa được thả cho đá với cựa tự nhiên mọc ra nhưng ngày nay các tay chơi đá gà cựa đã biến hóa và tháp cựa căm (cựa nhọn làm bằng căm xe), hay cựa dao cho các trận gà sanh tử. Những đặc điểm khác của gà cựa cũng khác nhiều khi so với gà đòn như :
Mặt : gà cựa có khuôn mặt rất “bảnh gà” và da mặt mỏng hơn.
Mắt : mắt gà cựa nhỏ và tròn, mí mắt mỏng.
Cổ : cổ gà cựa ngắn và nhỏ hơn nhiều so với gà nòi.
Chân : ngắn và nhỏ.
Cựa : gà cựa mọc cựa rất nhanh, hình thể cựa gà rất bén nhọn và dài.
Lông : gà cựa có lông phủ kín tòan thân. Lông cổ mọc dài thành bờm và lông mã mọc dài phủ xuống hai bên hông trông rất đẹp.
Đuôi : đuôi gà cựa là lọai lông ống nhỏ mềm mại, khó gẫy. Các lông phủ đuôi mọc dài và cong vòng như lông đuôi chim phụng.
Trọng lượng : gà cựa cân nặng trong khác biệt từ 2.2ký-lô đến 3.2 ký-lô.
Gà Chọi, Gà Đá, Gà Nòi
Tùy theo thổ âm của mỗi vùng tại Việt Nam mà gà nòi Việt Nam được hiểu và gọi theo nhiều từ khác nhau. Ngòai miền Bắc gà nòi được gọi là “Gà chọi”, trong khi miền Trung gọi là “Gà đá”. Chữ “chọi” theo tiếng của miền Bắc có nghĩa là đánh lẫn nhau.
Riêng chữ “đá” dùng để diễn tả cách gà nòi cùng chân để đá con gà đối phương trong trận đấu. Trong miền Nam hầu hết mọi người đều dùng hai chữ “gà nòi”.
Mặc dù dùng ba danh từ khác nhau để diễn tả gà nòi nhưng các tay chơi gà tại các miền khác nhau trên nước Việt Nam đều hiểu rõ các danh từ địa phương và vui vẻ chấp nhận cả những danh xưng về gà nòi này một cách hài hòa. Trong miền Nam nơi sản sinh ra nhiều giống gà cựa hay.
Các tay nuôi gà nòi Việt Nam thường chuyên biệt về một lọai gà đòn hay cựa chứ không chuyên cả hai lọai. Nhưng các tay chơi gà cựa hay gà đòn cũng dùng hai chữ “gà nòi” để nói đến lọai gà mình nuôi, mặc dù có sự khác biệt rất rõ ràng giữa hai lọai gà nay như đã phân tích ở phần trên.
Theo thông lệ thì những tay chơi gà đòn không tham gia vào các trận đấu của dân chơi gà cựa và ngược lại – nguyên nhân chính là hai lọai gà này có những cách nuôi và kỹ thuật khác nhau trong việc huấn luyện xoay xổ, cũng như cách dưỡng gà để ra trường.
Đặc Điểm Và Nguồn Gốc Một Số Giống Gà Phổ Biến Tại Việt Nam
là giống gà địa phương có từ lâu đời trên đất nước ta và được nuôi phổ biến ở khắp mọi miền đất nước. Trong đó, phổ biến nhiều nhất ở vùng đồng bằng trung du Bắc bộ và trung Nam Bộ.
Ngoại hình: Qua nhiều năm, gà Ri bị pha tạp nhiều, sắc lông không đồng nhất, gà mái có màu lông vàng, nâu, nâu nhạt, đen hoặc điểm các đốm đen ở đầu, cánh, cổ và chót đuôi. Gà trống có bộ lông sặc sỡ nhiều màu, nhất là lông cổ và đuôi, nhưng đa số có màu vàng đậm, tía. Đầu thanh đa số mào đơn (95%). Da chân vàng, chân có 2 hàng vây, thịt vàng, vây chân có khi màu đen gọi là chân chì. Gà Ri mọc lông sớm, chỉ hơn 1 tháng con đã đủ lông như gà trưởng thành. Phần lớn gà Ri có màu lông vàng rơm, chân vàng, đầu nhỏ, thanh, có mào đơn . Gà trống có lông màu đỏ tía, cánh và đuôi có lông đen, dáng chắc khỏe, ngực vuông và mào đứng.
Khối lượng: Khối lượng cơ thể lúc mới nở khoản 28g, khi 1 năm tuổi, con trống nặng 1,8 – 2,5 kg; con mái nặng 1,3 – 1,8 kg.
là giống phát dục sớm: 4- 4,5 tháng đã bắt đầu đẻ. Sản lượng trứng đạt 120 – 150 quả/mái/năm. Nếu nuôi tốt, thực hiện chế độ cai ấp khi có con có thể cho sản lượng 164 – 182 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 40 – 45 g, tỷ lệ trứng có phôi đạt 89 – 90%, tỷ lệ ấp nở 94%.
Ưu điểm nổi bật nhất của gà Ri là gà mọc lông, phát dục sớm, thịt trứng thơm ngon, thích nghi với khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới, ít mẫn cảm đối với bệnh cầu trùng, bạch lỵ, đường hô hấp . Nhưng tầm vóc bé, trứng bé, sản lượng trứng thấp và tính đòi ấp cao. Vì vậy, gà Ri thích hợp với chế độ nuôi quảng canh theo hướng cả thịt và trứng ở từng hộ gia đình. Trong tương lai, khi mà trên đại trà ngành gà nuôi các giống gà cao sản, nuôi thâm canh thì gà Ri sẽ được coi là một đặc sản.
Gà có nguồn gốc từ làng Lạc Thổ, Thị trấn Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Sự hình thành và phát triển gà Hồ gắn liền với tập quán cổ truyền, với nền văn hiến vùng quê Kinh Bắc cổ kính. Nơi sản xuất ra tranh Đông Hồ, đã đi vào lịch sử và được lưu truyền cho đến ngày nay. Gà Hồ cũng được nuôi phổ biến ở một số huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh cũ và một số vùng khác ở miền Bắc.
Đặc điểm ngoại hình: Gà có tầm vóc khá to so với các giống gà địa phương khác. Đặc điểm của con trống theo thành ngữ chọn giống của dân địa phương là : Đầu công, mình ốc, cánh võ trai, đuôi nơm (là nơm úp cá, để đạp mái dễ) da bụng, cổ màu đỏ, mào xuýt (mào kép), diều cân ở giữa; quản ngắn, đùi dài (cho thịt đùi nhiều) chân tròn, ngón tách nhau, da vàng, thịt ngon, lông mã lĩnh hay mận chín. Lông gà mái có màu lá chuối hay màu võ nhãn, màu đất thó. Gà trống da vàng, màu lông mận chín hay mận đen, ngực nở, chân cao vừa phải, mào xuýt, thân hình chắc chắn. Khối lượng mới nở 45 g/con, lúc trưởng thành con trống nặng 4,5 – 5,5 kg/con; con mái nặng 3,5 – 4,0 kg/con. Bắt đầu đẻ lúc 185 ngày tuổi. Một năm đẻ 3 – 4 lứa, mỗi lứa đẻ được 10-15 quả trứng. Khối lượng trứng 50-55 g/quả.
Tuổi đẻ của gà Hồ muộn 7,5 – 8 tháng. Sản lượng trứng 55 – 57 quả/năm/mái, khối lượng trứng 55 – 58 g (Theo Hội chăn nuôi Việt nam – 2002). Trong đó, tỷ lệ trứng có phôi là 80%, tỷ lệ ấp nở 70%, tỷ lệ nuôi sống đến 2 tuần tuổi 80% (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp – 2003). Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận – 2003 gà có sản lượng trứng đạt 60 quả/mái/năm, tỷ lệ trứng ấp 70 – 80%.
Gà Hồ có thân hình vạm vỡ và là giống gà địa phương có từ lâu đời nên cũng có những ưu điểm của gà địa phương. Thịt, trứng thơm ngon, sức chống chịu với ngoại cảnh tốt, nhưng sản lượng trứng thấp. Do đó, gà Hồ được xếp vào nhóm gà hướng thịt của Việt nam.
Được nuôi phổ biến ở các tỉnh miền Nam và hiện nay, phát triển mạnh ở một số địa phương thuộc địa phận đồng bằng sông Cửu Long, hiện bị pha tạp nhiều.
Gà có lông màu vàng, chân có lông màu đen ở bàn, có khi ở cả ngón, gà mẹ có loại trụi đuôi hoặc cũng có loại đuôi dài.
Khối lượng có thể lúc mới sinh 30g; khi trưởng thành, gà trống nặng 3kg, mái nặng 2kg.
Sản lượng trứng 70 – 90 quả/mái/năm, nặng 45 – 50 g/quả. Trong đó, tỷ lệ trứng có phôi khoảng 85%; tỷ lệ ấp nở khoảng 88%; tỷ lệ nuôi sống đến 8 tuần tuổi khoảnglà 95%.
Gà Mán là vật nuôi truyền đời của đồng bào Dao, H’Mông, Nùng ở các huyện khác nhau của tỉnh Cao Bằng và một số tỉnh phía Bắc. Gà có tầm vóc tương đối lớn so với các giống gà nội khác. Khối lượng cơ thể lúc sở sinh 34g, khi 24 tháng tuổi gà trống có thể đạt 4,5 – 5kg, gà mái 3 – 3,5kg.
Đặc điểm ngoại hình nổi bật của gà Mán là có chân màu vàng, trên da có những chấm xanh, màu hoa mơ. Lông màu hoa mơ hoặc nâu thẩm. Con trống trưởng thành màu đơn rất phát triển, thân dài, ngực rộng và sâu, lông đuôi cong dài. Gà có nhiều màu sắc: xám, vàng, nâu đất . Đặc biệt, hầu hết các con mái trưởng thành (80%) các bộ râu rất phát triển đó là một chùm lông vũ mọc dưới cằm của gà. Chùm lông này phát triển trở thành một đặc điểm ngoại hình đặc trưng của gà Mán để phân biệt với các giống gà khác.
200 ngày mới bắt đầu đẻ quả trứng đầu tiên. Sản lượng trứng 48 – 50 quả/mái/năm . Khối lượng trứng 50,34g/quả, trứng có phôi đạt tỷ lệ 95,35%, tỷ lệ nở chiêm 85,66% ( Theo Bùi Hữu Đoàn – 2003 ). Gà Mán có bản năng ấp rất cao và khéo, nuôi con khéo và kéo dài, tầm vóc lớn, nhưng đẻ ít, khả năng tăng đàn chậm. Vì vậy mà gà Mán được nuôi để lấy thịt .
. Hiện nay nó được phát triển nhiều ở một số địa phương trong tỉnh Hưng yên, ngoài ra còn được nuôi ở Tỉnh Hải Dương, Hà Nội, Thái Bình, Hà Nam… Gà có ưu điểm: Tầm vóc lớn, khối lượng trứng to; nhưng có nhược điểm xương to, đẻ ít, khả năng tăng đàn chậm, gà con mọc lông chậm; . Lông của con trống có màu mận chín (màu mã lĩnh) chiếm đa số, con mái có hai màu lông điển hình: lông xám xen kẻ đốm đen, nâu (dân địa phương gọi là lá chuối khô), chiếm đa số và lông nõn chuối (màu nõn chuối) chiếm số ít. Nói chung, màu lông gà Đông Tảo cũng ít bị pha tạp như gà Mía và tốc độ mọc lông chậm. Khối lượng cơ thể lúc mới sinh là 33g (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp- 2003). Gà thịt lúc 4 tháng tuổi có khối lượng trung bình con trống đạt 2,5 kg, con mái đạt 2 kg. Gà đẻ lúc 4 tháng tuổi con trống trung bình đạt 4,8 kg, con mái 3,5 kg (Theo tài liệu quỹ gen vật nuôi – 2001). Lúc trưởng thành mái nặng 2,5 – 3 kg, trống nặng 3,5 – 4 kg.
Sản lượng trứng trong 10 tháng đẻ 68 quả mái, tỷ lệ có phôi 90%, tỷ lệ trứng ấp nở 68% (Theo tài liệu quỹ gen vật nuôi – 2001), khối lượng trứng 55 – 57 g, tỷ lệ trứng có phôi 88%, tỷ lệ ấp nở 70%, tỷ lệ nuôi sống đến 8 tuần tuổi 85% (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp – 2003).
Được nuôi ở các tỉnh Nam Bộ, vóc dáng nhỏ, thịt thơm ngon. Sáu tháng tuổi trống nặng 800 – 850 g, mái nặng 600 – 620g.
là một nhóm giống được lai tạo giữa gà Rhode Island kiêm dụng trứng thịt với gà Ri của ta tại Viện chăn nuôi vào những năm 70, năm 1985 được công nhận là nhóm giống.
Gà có lông nâu nhạt, mào đơn, chân vàng. Khối lượng lúc 9 tuần tuổi 660g/con; 19 tuần tuổi 1,5 kg/con; 44 tuần tuổi đạt 1,9 kg/con. Tuổi đẻ trứng đầu là 135 ngày Khối lượng trứng 49 g/quả. Năng suất trứng 1 năm đạt 180 – 200 quả/mái. Vỏ trứng màu nâu nhạt gần giống màu trứng gà Ri. Giống gà này được nuôi giữ tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương (Từ Liêm, Hà nội), dùng để lai với một số giống gà nội và gà nhập nội (gà thả vườn) tạo ra con lai năng suất cao.
Gà hướng trứng được phổ biến trong nước cũng như trên thế giới bởi chính ở sản lượng trứng cao của nó (trên 250 trứng/năm). Gà có đặc điểm chung là: Tầm vóc nhỏ, bộ lông dày, sít, ép sát vào thân. Mào, tích tai phát triển lớn, chân nhỏ, cao, không có lông. Cơ thể có kết cấu vững chắc, dạng hình thoi hay hình chữ nhật dài. Sinh trưởng chậm nhưng thành thục về tính sớm (2021 tuần tuổi). Hoạt động sinh dục mạnh, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ ấp nở cao, không còn khả năng ấp bóng, thuộc loại thần kinh linh hoạt). Hiện nay phân thành 2 nhóm gà đẻ trứng đó là gà đẻ trứng vỏ trắng và gà đẻ trứng vỏ màu. Tiêu biểu cho các giống gà hướng trứng là các giống Leghorn (trắng và đỏ), gà trắng Nga, gà Minhorka (Địa Trung Hải).. .điển hình là giống Leghorn.
là giống chuyên trứng cao sản nhất thế giới hiện nay. Gà được tạo ra từ giống gà địa phương của Ý (Từ cảng Livor Ý gà chuyển sang Mỹ năm 1835, gà có lông màu trắng, nhỏ con nhưng đẻ trứng tốt). Qua quá trình lai tạo các nhà khoa học Mỹ đã cho giống gà Leghorn ngày nay. Gà Leghorn đã có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ ngành gà công nghiệp thế giới. Nó được nuôi rộng rãi ở hầu khắp các nước, ở các vùng khí hậu khác nhau trên thế giới. Trong sản xuất trứng gà Leghorn luôn chiếm tỷ trọng cao về đầu con và cao nhất về sản lượng trứng.
Đặc điểm ngoại hình: Gà Leghorn có lông trắng toàn thân, và có giống Leghorn màu đỏ. Bộ lông dày, sít, xếp sát vào thân. Cấu trúc cơ thể chắc chắn, bộ xương khoẻ chắc. Mào đơn có 5 khía răng cưa nhỏ, gà mái khi đã đẻ gà thường ngả về một phía. Đầu nhỏ, mắt xanh, lá tai màu trắng xanh là đặc trưng di truyền trội của giống. Cổ dài trung bình, ngực phát triển và hơi thẳng. Bụng và đuôi phát triển, với lông dài, mỏ, da, chân màu vàng.
Sinh trưởng phát dục: Thể trọng gà con 1 ngày tuổi là 39- 40g/con. Thể trọng khi đẻ trứng quả đầu tiên là 1,4-1,6kg. Trưởng thành gà mái nặng 1,7-1,8kg, gà trống là 2,0-2,2kg/con. Là giống thành thục sớm, gà con đủ lông ở tháng thứ nhất, gà mái bắt đầu đẻ lúc 5-5,5 tháng tuổi.
Sản lượng trứng trung bình một gà mái trong năm là 250-280 trứng, trọng lượng trứng 55-60 g/quả. Nhiều nước nuôi tốt gà Leghorn cho 300 trứng/con như Nhật, Canada, Mỹ. Tỷ lệ nở và trứng thụ tinh cao. Vỏ trứng có màu trắng.
Ở Việt Nam gà Leghorn nhập vào lẻ tẻ từ nhiều nước khác nhau nhưng nhiều nhất là từ Cuba từ năm 1974, khi Cuba giúp xây dựng các trung tâm giống gà quốc gia. Ta nhập từ Cuba 2 dòng gà hướng trứng giống Leghorn là X và Y.
Đặc điểm gà dòng X: Thân gọn, thon nhẹ, dài; mỏ, da chân màu vàng; lông màu trắng có ánh vàng; mào đơn 5 khía, to, đỏ tươi. Gà trống mào thẳng đứng, gà mái mào to ngả về bên trái che kín mắt. Lá tai màu trắng xanh. Tính tình nhanh nhẹn, ưa hoạt động. Gà dòng Y đặc điểm tương tự gà dòng X. Khi mới nở gà con lông có màu nhạt hơn gà dòng X. Gà trống có chân cao hơn so với gà dòng X.
Gà Văn Phú là giống gà địa phương được thuần dưỡng từ lâu ở xã Văn Phú, Xã Sài Ngã, huyện câm khê, tỉnh Phú Thọ; giống gà này phân bố hẹp, chỉ chủ yếu ở một vài địa phương trong tỉnh.
Về đặc điểm ngoài hình, thể chất: gà Văn Phú có ngoại hình cân đối, chân chì, cao, lông đen pha lẫn trắng ở cuống lông, mào đơn, da trắng, xương nhỏ.
Khối lượng cơ thể qua các giai đoạn thấp hơn gà Đông Tảo, Gà Mán . Một năm tuổi con trống nặng 3,2kg, mái nặng 2 – 2,3kg. Sản lượng trứng khá 80- 100 trứng/mái/năm, khối lượng trứng 50 – 55 g. Tỷ lệ nở thấp, chỉ đạt trên 70% (Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận – 2003 )
là giống gà kiêm dụng, được dùng chăn nuôi theo cả hướng thịt và hướng trứng.
Gà có số lượng không nhiều, rải rác nhiều nơi, thường tồn tại chủ yếu ở những địa phương có phong tục truyền thống văn hoá chơi chọi gà như: Hà tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Huế, thành phố Hồ Chí Minh (huyện Hoóc Môn) Chân cao, mình dài, cổ cao, mào xuýt (mào kép) màu đỏ tía; cựa sắc và dài (con trống có lông màu mận chín pha lông đen ở cánh, đuôi, đầu). Tích và dái tai màu đỏ, con mái màu xám ( lá chuối khô ) hoặc màu vàng nhờ điểm đen, mỏ và chân màu chì, mắt đen có vòng đỏ.
Năng suất của giống gà nòi: Sản lượng trứng 50 – 70 quả/mái/năm, trứng vỏ màu hồng, khối lượng 50 – 55 g/quả. Gà có sức khoẻ tốt, nhưng đẻ ít, khả năng tăng đàn chậm; được người dân nuôi để làm trong các cuộc lễ hội. Một số địa phương như vùng Hoóc môn và các tỉnh miền Đông thường cho lai với để nuôi lấy thịt.
được thuần dưỡng đầu tiên ở các tỉnh Trà Vinh, Long An, Kiên Giang. Đặc điểm ngoại hình: Thân hình nhỏ, nhẹ, thịt xương màu đen, lông trắng tuyền xù như bông, mỏ, chân cũng màu đen, mào cơ phát triển, màu đỏ tím khác với các giống gà khác chân có 5 ngón nên còn gọi là gà Ngũ trảo và có lông chiếm đa số.
Gà ác trên 4 tháng tuổi có khối lượng trung bình 640 -760 g Tuổi đẻ trứng đầu tiên là 110 -120 ngày, sản lượng trứng 70 – 80 quả/mái/năm, trứng nặng 30 – 32 g, tỷ lệ trứng có phôi 90%, tỷ lệ ấp nở /trứng xấp xỉ 64%. Gà mái có thể sử dụng tới 2,5 năm.
có khối lượng nhỏ, tỷ lệ ít nhưng lại là loại gà thuốc, bồi dưỡng (tỷ lệ sắt trong thịt cao hơn gà thường 45%, tỷ lệ axít amin cao hơn 25%). Gà thường được nuôi chủ yếu để hầm với thuốc bắc hoặc ngâm rượu để bồi bổ sức khoẻ và trị bệnh.
hay còn gọi là Lương Phượng Hoa Trung Quốc do lai tạo giữa giống gà nội của Trung Quốc với , được nhập vào nước ta từ sau năm 1997. Gà có màu lông đa dạng: vàng đốm đen ở vai, lưng và lông đuôi. Lông cổ có màu vàng ánh kim, búp có màu xanh đen. Dòng mái có màu đốm đen, cánh sẻ là chủ yếu.
Dòng trống chủ yếu có màu vàng nâu nhạt – đốm đen; Chân màu vàng, mào đơn đỏ tươi, Thân hình cân đối, thân hình chắc, thịt ngon. Khối lượng cơ thể lúc mới sinh: 34,5 g, lúc 8 tuần tuổi đạt 1,2 – 1,3 kg. Khối lượng lúc 20 tuần tuổi con trống 2,0 – 2,2 kg, CON mái 1,7 – 1,8 kg/con. Tuổi đẻ đầu tiên 140 – 150 ngày, sản lượng trứng 150 – 170 quả/mái/năm.
có sức kháng bệnh tốt, thích hợp với mọi điều kiện chăn nuôi ở Việt Nam: Nuôi công nghiệp , bán chăn thả và chăn thả.
à một giống gà nuôi có xuất xứ từ tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc , được nuôi phổ biến ở một số nước để lấy thịt và lấy trứng. Đây là một giống gà thuần hoá, dễ nuôi và lớn nhanh và là loại gà hướng thịt thích nghi tốt với kiểu nuôi chăn thả cũng như chăn nuôi công nghiệp, có năng suất cao, chất lượng thịt thơm ngon, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Gà có bộ lông màu vàng nhạt (màu lông tương đối đồng nhất), chân vàng, mỏ vàng (nên được gọi là gà Tam hoàng), đuôi có lông đen lẫn vào, cơ thể hình tam giác, thân ngắn, lưng bằng, chân ngắn, hai đùi phát triển, chiều cao trung bình, trọng lượng khoảng 2 đến 4 kg (nuôi đến tháng thứ tư), một con gà rống trưởng thành trung bình nặng từ từ 2,5 – 4 kg, gà ái trưởng thành năng từ 2 – 2,5 kg, thịt gà vàng và rất chắc thịt. đẻ khi 5 tháng tuổi, và đẻ khá năng suất, sản lượng trứng bình quân 150 quả/mái/năm (hoặc 68 tuần) tỷ lệ nuôi sống rất cao (95%) và khả năng kháng bệnh tốt, chính vì vây được nuôi phổ biến đặc biệt là tại Việt Nam Thịt gà tam hoàng có thể chế biến rất nhiều món tuỳ theo sở thích như: Luộc , hầm với các loại củ… Thịt gà tam hoàng là món ăn không chỉ cung cấp chất dinh dưỡng mà còn có thêm năng lượng , can xi. Ngoài những chất albumin, chất béo, thịt gà còn có các vitamin A, B1, B2, C, E, axit, canxi, photpho, sắt. Đây là loại thực phẩm chất lượng cao, cơ thể con người dễ hấp thu và tiêu hóa. , thịt gà nói chung và gà Tam Hoàng nói riêng có tính ôn ngọt bổ dưỡng, lành mạnh phổi . Loại thịt này còn chữa băng huyết, xích bạch đới, lỵ, ung nhọt, là loại thực phẩm bổ âm cho tỳ vị, bổ khí, huyết và thận. Đặc biệt, thịt gà có tác dụng bồi bổ cao cho người bị bệnh lâu ngày, dạ dày bị phong hàn, suy yếu không hấp thu được thức ăn. Ngoài bổ khí huyết, thịt gà còn giúp trừ phong.
Gà được nuôi theo hình thức công nghiệp (chăn nuôi công nghiệp) hoặc bán công nghiệp (thả vườn hoặc nuôi tập trung tại chuồng trại).
Ngỡ Ngàng Nguồn Gốc Lịch Sử Giống Gà Tre Trứ Danh Việt Nam
Ngỡ ngàng nguồn gốc lịch sử giống gà tre trứ danh Việt Nam
Tên gọi chính xác của gà tre phải là ”gà che”. Sự thật và tên gọi nguồn gốc giống gà này sẽ khiến nhiều người không khỏi bất ngờ.
Là giống gà có trọng lượng nhỏ, thân hình đẹp, gà tre là một sinh vật cảnh được nhiều người Việt ưa chuộng. Sự thật và tên gọi nguồn gốc giống gà này sẽ khiến nhiều người không khỏi bất ngờ.
Theo đó, gà tre có tên gọi gốc là mon-che theo tiếng Khmer. Đây là một giống gà bản địa được đồng bào người Khmer nuôi từ xa xưa ở khu vực miền Tây Nam Bộ.
Tên gọi chính xác của giống gà này là “gà che”. Theo thời gian, khi gà “che” phổ biến khắp Việt Nam, người ta lại tưởng cái tên “che” là do dân miền Tây phát âm sai nên sửa lại là gà “tre”, và trở thành tên gọi chính thức như ngày nay.
Với trọng lượng từ 400 gram đến 600 gram cho gà mái, 500 gram đến 800 gram cho gà trống, có thể nói gà tre là giống gà bản địa nhỏ nhất Việt Nam và cũng là một trong các giống gà nhỏ nhất trên thế giới.
Trong vài thập niên trở lại đây, gà tre Nam Bộ bị suy giảm số lượng nghiêm trọng và đứng trước nguy cơ biến mất hoàn toàn do bị loại bỏ vì không mang lại hiệu quả kinh tế cao, bị lai tạo với nhiều giống gà khác.
Ở Việt Nam hiện tại có nhiều giống gà nhỏ được bán trên thị trường với tên gọi gà tre, nhưng thực chất đều là gà lai hoặc gà nhập ngoại, không phải giống gà tre bản địa của miền đất Nam Bộ.
Từ tên gọi một giống gà đặc hữu, gà tre đã trở thành tên gọi chung cho các giống gà cảnh cỡ nhỏ. Ngày nay, may ra ở các vùng sâu vùng xa mới còn sót lại những con gà tre Việt thuần chủng…
Mời quý độc giả xem video Hà Nội mùa cốm xanh về. Nguồn: VTV24.
T.B (tổng hợp)
Bạn đang xem bài viết Gà Chọi Việt Nam, Nguồn Gốc Và Phân Loại Gà Chọi Việt trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!