Cập nhật thông tin chi tiết về Kỹ Thuật Nuôi Cá Trê Vàng Lai mới nhất trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cá trê vàng lai là kết quả của lai giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo giữa cá trê phi và cá trê vàng.
Cá trê vàng lai có ngoại hình tương tự ,cá trê vàng, da trơn nhẵn, đầu bẹp, thân hình trụ, dẹp ở phía đuôi. Thân có màu vàng xám hoặc nâu vàng xám, phần bụng màu vàng nhạt, trên thân lốm đốm nhiều bông cẩm thạch và nhiều chấm trắng nhỏ theo chiều đứng ( thẳng góc với thân cá ).
Cá trê vàng lai rất mau lớn, trong điều kiện nuôi với mật độ thích hợp thức ăn đầy đủ, sau 3-4 tháng nuôi cá sẽ đạt trọng lượng trung bình từ 150-200g/con. Cá sống trong môi trường nước hơi phèn và trong điều kiện nước hơi lợ ( độ mặn < 5 0/00 ). cá phát triển tốt trong môi trường nước có độ pH trong khoảng từ 5,5-8,0. Do cá có cơ quan hô hấp phụ nên sống được trong ao, đìa nước tù, chịu đựng được cả những khi hàm lượng oxy trong nước xuống thấp ( 1-2mg/l ).
Cá trê vàng lai hoạt động, bơi lội, ăn mạnh vào buổi chiều tối hoặc ban đêm, lúc trời mờ sáng, vì vậy việc kéo lưới thu hoạch cá ( cá giống và thịt ) nếu thực hiện vào những thời gian kể trên sẽ đạt hiệu quả cao.
Mùa vụ thả nuôi thường kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 âm lịch hàng năm.
II. Kỹ thuật nuôi cá thương phẩm
1. Chuẩn bị ao nuôi
Ao nuôi có diện tích từ 1.000 – 3.000m2 sẽ thuận tiện cho việc cho ăn, chăm sóc và thu hoạch. Nếu là ao cũ: vét bùn đáy ao, lấp hang hốc, phát quang bụi rậm, phơi đáy ao 2-3 ngày, bón vôi từ 30-50kg/1.000m2 để diệt tạp và điều chỉnh độ pH của nước ao. Bón lót phân chuồng với liều lượng 100-150kg phân/1.000m2. Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao.
Sau 5-7 ngày có thể thả cá vào ao nuôi được. Mực nước ban đầu lấy vào khoảng 1m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu 1,2-1,5m.
Nếu là ao mới đào: bón vôi với lượng từ 70-100kg/1.000m2 để giữ cho độ pH của nước ao từ 6-7,5 là tốt nhất.2. Chọn cá giống
Chọn cỡ cá đồng đều, khỏe mạnh, không bị xây xát, không bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh. Nếu ao không bị rò rỉ, có thể rút cạn nước và diệt tạp triệt để thì phải thả cá cỡ 5-6cm hoặc cá lứa ( 10-12 cm ), nhằm giảm được tỉ lệ hao hụt.
3. Mật độ thả
Nuôi đơn
Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch
3 – 4 60 – 70 Sau 3 tháng nuôi 4 – 6 40 – 50 Sau 3 tháng nuôi 5 – 7 30 – 40 Sau 3 tháng nuôi 10 -12 20 – 30 Sau 2,5 tháng nuôiNuôi ghép
Mục đích là tận dụng hết thức ăn trong ao nuôi, có thể thả ghép với các loại cá sau: rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Mật độ thả cho từng cá như sau:
Loại cá Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch
Trê vàng lai 4 – 6 10 Sau 3 tháng (=250g/con) Trôi 6 – 8 5 Sau 6 tháng (=250g/con) Chép 6 – 8 3 Sau 6 tháng (=300g/con) Rô phi 6 – 8 10 Sau 4 tháng (=200g/con) Trắm 6 – 8 1 – 2 Sau 8 tháng (=500g/con)
Trong thời gian này thời gian thu hoạch sẽ thay đổi theo loại cá, tốc độ lớn, kích cỡ thương phẩm được thị trường ưa chuộng. Như vậy sau thời gian nuôi 3 tháng sẽ thu hoạch và thả bù cá trê vàng lai với kích cỡ lớn hơn, thường là 10 – 12cm hoặc 12 – 15cm, thả bù cá rô phi cỡ 8 – 10cm sau khi kéo lưới thu hoạch đợt 1.
4. Thức ăn nuôi cá và chăm sóc
Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn, có tập tính ăn gần như cá trê vàng. Thức ăn nuôi cá thường gồm các loại phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh như đầu vỏ tôm, da ruột mực, đầu lòng cá, ruột sò điệp… cám thức ăn gia súc, cám gạo, bắp xay, con ruốc, cá phân ( xay ).
Ngoài ra để giúp tăng trưởng nhanh, ít bệnh trong quá trinh nuôi cần định kỳ bổ sung premix vitamin ( loại dùng cho heo thịt ) 1 tuần 1 lần với lượng 1 – 2% của tổng lượng thức ăn cho ăn trong ngày.
Trong hai tuần đầu khi mới thả cá còn nhỏ nên băm thức ăn để vừa với miệng cá.
Bắp xay nên ngâm nước cho nở khoảng 15 – 20 phút trước khi nấu với nước sôi. Sau khi nấu chính trộn với cám khô theo tỉ lệ 1/1 rồi trộn tiếp với con ruốc hoặc cá phân.
Nếu cho ăn thức ăn tươi ( đầu tôm, lòng ruột cá… ) lượng thức ăn cho ăn trong ngày bằng 10 -15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp… lượng thức ăn cho cá ăn trong ngày bằng 5 – 7% trọng lượng cá dự đoán. Trường hợp nuôi ghép thì nên dùng kết hợp thức ăn tinh với thức ăn tươi theo tỉ lệ 1/1. Nếu cá ghép trong ao đã lớn thì có thể cho cá ăn bắp hột ( xay thô ) ngâm nước mà không cần nấu chín.
Nếu cho ăn ở những vị trí cố định trong ao, thường xuyên phải theo dõi và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.
Trong thời gian nuôi cần theo dõi hoạt động của cá, màu nước trong ao. Sau 1 tháng đầu, cá tương đối lớn, có thể định kỳ lấy nước vào trong ao, cứ 5 – 7 ngày 1 lần thay khoảng 30% nước trong ao. Sử dụng nhiều thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước thường xuyên hơn.
5. Một số bệnh5.1 Một số bệnh trên cá hương, cá giống
Ương cá từ cá bột lên cá hương, cá giống là giai đoạn rất quan trọng. Ở giai đoạn này da cá mỏng, rất nhạy cảm với với sự thay đổi của môi trường bên ngoài nên cá dễ bị nhiễm bệnh, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, có khi gây chết hàng loạt.
Bệnh trắng mình
* Dấu hiệu: Thân cá có nhiều mảng trắng, cá bị tuột nhớt, râu cong quặp cá treo thân thẳng đứng với mặt nước hoặc bơi lội lờ đờ, chết rất nhanh với số lượng lớn. Bệnh có thể xảy ra ở cá bột cỡ 5 – 7 ngày tuổi, cỡ cá giống lớn 6 – 8cm vẫn có thể nhiễm bệnh này.* nguyên nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Flexibater columnaris, bệnh thường xảy ra ở các bể ương với mật độ dày, chất lượng nước xấu, nước bị thối bẩn do thay nước không thường xuyên. Vi khuẩn xâm nhập các cơ quan nội tạng của cá, hủy hoại mang và các tế bào ở da cá làm cá khó thở, gây chết. Ở bệnh này cùng với sự xâm nhập của vi khuẩn, nấm và nguyên sinh động vật gây bệnh cũng đồng thời xâm nhập làm cá chết rất nhanh.* cách xử lý: Trong bề xi măng hoặc bể bạt dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 – 20ppm kết hợp với Formalin 25 ppm ( 25ml/1m3 nước ). hoặc dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 – 20ppm kết hợp với muối ăn.
6. Thu hoạch
Sau 2 tháng đến 3 tháng nuôi cá sẽ đạt kích cỡ thương phẩm ( 150 – 250g/con ). Lúc này hình dáng bên ngoài của cá sẽ rất giống cá trê vàng ( chỉ khác ở chỗ u lồi xương chẩm ). Thu hoạch đợt 1 xong sẽ tiếp tục cho ăn tích cực, khoảng 10 – 15 ngày sau sẽ thu hoạch đợt 2, thường ở đợt này lượng cá thu hoạch sẽ được nhiều hơn và tương đối đồng đều về kích cỡ hơn so với đợt 1. Nếu trong ao vẫn còn 1 số cá chưa đạt quy cỡ thì sẽ nuôi vỗ tiếp tục 2 tuần nữa và thu hoạch toàn bộ. Nên thả cá giống ngay từ đầu vụ ( tháng 3 – 4 âm lịch ) để đến thời điểm thu hoạch vào tháng 6, 7, 8 âm lịch cá thịt bán được giá cao, chi phí đầu tư con giống rẻ, dễ nuôi hơn lúc cuối vụ ( do thời tiết cuối vụ thường lạnh, cá dễ bị bệnh ).
Sau khi trừ chi phí cải tạo ao, con giống, thức ăn, công chắm sóc bảo vệ… người nuôi thường có thể được lãi 40 – 45% so với tiền vốn bỏ ra ban đầu. Thu hoạch cá vào những mùa đụng cá đồng ( thả cá vào giữa và cuối vụ ) thì tiền lãi thu được sẽ thấp hơn do giá con giống cao, giá cá thịt rẻ, thường chỉ lãi 20 – 25% so với tiền vốn ban đầu.
HIỆN NAY TRẠI GIỐNG CỦA CHÚNG TÔI CÓ CUNG CẤP ĐẦY ĐỦ CÁ BỘT VÀ KÍCH CỠ CON GIỐNG. BÀ CON NÀO CÓ NHU CẦU NUÔI THẢ XIN VUI LÒNG LIÊN HỆ VỚI CHÚNG TÔI
RẤT HÂN HẠNH ĐƯỢC PHỤC VỤ BÀ CON!
Kỹ Thuật Nuôi Cá Thương Phẩm Trê Vàng Lai
1. Chuẩn bị ao nuôi
Ao nuôi cá trê vàng lai có diện tích từ 1.000 – 3.000 m2 sẽ thuận tiện cho việc cho ăn, chăm sóc và thu hoạch.
Nếu là ao cũ: Vét bùn đáy ao, lấp hang hốc, phaats quang bụi rậm, phơi đáy ao 2 – 3 ngày, bón vôi từ 30 – 50 kg/1.000m2 để diệt tạp và điều chỉnh độ pH của nước ao.
Bón lót phân chuồng với liều lượng 100 – 150 kg phân/1.000 m2.
Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao.
Sau 5 – 7 ngày có thể thả cá vào ao nuôi được.
Mực nước ban đầu lấy vào khoảng 1 m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu 1,2 – 1,5 m.
Nếu là ao mới đào: Bón vôi với lượng từ 70 – 100 kg/1.000 m2 để giữ cho độ pH của nước ao từ 6 – 7,5 là tốt nhất.
2. Chọn cá giống
Chọn cỡ cá đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây sát, không bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh.
Nếu ao không bị rò rỉ, có thể rút cạn nước và diệt tạp triệt để thì nên thả nuôi cá cỡ nhỏ 3 – 4 cm hoặc 4 – 5 cm để giảm được chi phí về con giống.
Nếu ao có lỗ muội bị rò rỉ, không diệt được tạp triệt để thì phải thả cá cỡ 5 – 6 cm hoặc cá lứa (10 – 12 cm), nhằm giảm được tỷ lệ hao hụt của cá nuôi.
3. Mật độ thả Nuôi đơn
Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch
3 – 4cm 60 – 70 con/m2 Sau 3 tháng nuôi
4 – 6cm 40 – 50 con/m2 Sau 3 tháng nuôi
5 – 7cm 30 – 40 con/m2 Sau 3 tháng nuôi
10 – 12cm 20 – 30 con/m2 Sau 2,5 tháng nuôi
Nuôi ghép
Mục đích là tận dụng hết thức ăn trong ao nuôi, có thể thả ghép cá trê vàng lai chung với các loại cá sau: rô phi, chép, trắm cỏ, trôi.
Mật độ thả cho từng cá như sau:
Loại cá Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch
Trê vàng lai 4 – 6cm 10 con/m2Sau 3 tháng (= 250g/con)
Trôi 6 – 8cm 5 con/m2 Sau 6 tháng (= 250g/con)
Chép 6 – 8cm 3 con/m2 Sau 6 tháng (= 300g/con)
Rô phi 6 – 8cm 10 con/m2 Sau 4 tháng (= 200g/con)
Trắm 6 – 8cm 1 – 2 con/m2 Sau 8 tháng (= 500g/con)
Trong trường hợp này thời gian thu hoạch sẽ thay đổi theo lại cá, tốc độ lớn, kích cỡ thương phẩm được thị trường ưa chuộng.
Như vậy sau thời gian nuôi 3 tháng sẽ thu hoạch và thả bù cá trê vàng lai với kích cỡ lớn hơn, thường là 10 – 12 cm hoặc 12 – 15 cm, thả bù cá rô phi cỡ 8 – 10 cm sau khi kéo lưới thu hoạch đợt 1.
4. Thức ăn nuôi cá và chăm sóc
Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn, có tập tính ăn gần tương tự như cá trê vàng.
Thức ăn nuôi cá thường gồm các loại phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh như đầu vỏ tôm, da ruột mực, đầu lòng cá, ruột sò điệp … cám thức ăn gia súc, cám gạo, bắp xay, con ruốc, cá phân (xay).
Ngoài ra, để giúp tăng trưởng nhanh, ít bệnh, trong quá trình nuôi cần định kỳ bổ sung premix vitamin (loại dùng cho heo thịt) 1 tuần 1 lần với lượng 1 – 2% của tổng lượng thức ăn cho ăn trong ngày.
Trong hai tuần đầu khi mới thả cá còn nhỏ nên băm thức ăn để vừa với cỡ miệng của cá.
Bắp xay nên ngâm nước cho nở khoảng 15 – 20 phút trước khi nấu với nước sôi.
Sau khi nấu chín trộn với cám khô theo tỷ lệ 1/1 rồi trộn tiếp với con ruốc hoặc cá phân.
Nếu cho ăn thức ăn tươi (đầu tôm, lòng ruột cá …) lượng thức ăn cho ăn trong 1 ngày bằng 10 – 15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao.
Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp… lươngj thức ăn cho cá ăn trong 1 ngày bằng 5 – 7% trọng lượng cá dự đoán.
Trường hợp nuôi ghép chung với các loại cá khác (chép, trắm, trôi…) thì nên dùng kết hợp thức ăn tinh với thức ăn tươi theo tỷ lệ 1/1.
Nếu cá ghép trong ao đã lớn thì có thể cho ăn bắp hột (xay thô) ngâm nước mà không cần phải nấu chín.
Nếu cho ăn ở những vị trí cố định trong ao, thường xuyên phải theo dõi và điều 3 chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.
Trong thời gian nuôi cần theo dõi hoạt động của cá, màu nước trong ao.
Sau một tháng đầu, cá tương đối lớn, có thể định kỳ lấy nước vào trong ao, cứ 5 – 7 ngày một lần thay khoảng 30% nước trong ao.
Sử dụng nhiều thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước thường xuyên hơn.
Kỹ Thuật Nuôi Heo Rừng Lai
Ngày nay nhu cầu tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi của nhân dân ngày càng cao, đặc biệt là các loại thịt đặc sản qúy hiếm. Một trong những động vật hoang dă được nhiều người Việt Nam ưa chuộng đó là lợn rừng. Thuần hóa lợn rừng, lai tạo với lợn nhà đang được nhiều trang trại và các cơ sở chăn nuôi của nước ta nghiên cứu và ứng dụng. Giống và đặc điểm giống:
Tên gọi: Heo rừng lai là con lai giữa heo rừng đực với heo nái là heo địa phương thả rông của người dân tộc thường nuôi (giống heo gần như hoang dă) tạo ra con lai với ưu thế lai cao của cả bố và mẹ: Có sức đề kháng mạnh, khả năng chịu đựng kham khổ với môi trường sống tự nhiên cao, ít dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt rất thấp…
Vóc dáng: Heo rừng lai cân đối, nhanh nhẹn, di chuyển linh hoạt, hơi gầy, dài đ̣n, lưng thẳng, bụng thon, chân dài và nhỏ, cổ dài, đầu nhỏ, mơm dài và nhọn, tai nhỏ vểnh và thính, răng nanh phát triển mạnh, da lông màu hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có 3 ngọn, lông dọc theo sống lưng và cổ dày, dài và cứng hơn, ánh mắt lấm lét trông hoang dă… Trọng lượng lúc trưởng thành (con đực thường lớn hơn con cái), con đực nặng 50 – 70 kg, con cái nặng 30-40 kg…
Tập tính sinh hoạt và môi trường sống: Heo rừng lai hơi nhút nhát, thính giác, khứu giác tốt, sinh hoạt bầy đàn và chọn lọc tự nhiên thể hiện tính hoang dă… Thích sống theo bầy đàn nhỏ vài ba con, heo đực thường thích sống một ḿnh (trừ khi heo cái động dục).
Môi trường sống thích hợp là vườn cây, trảng cỏ gần ao hồ… Thích hoạt động về ban đêm, ban ngày t́m nơi yên tĩnh, kín đáo để ngủ, nghỉ…
Giá trị và thị trường: Thịt heo rừng lai màu hơi nhạt, không đỏ như thịt heo nhà, nhưng nhiều nạc, ít mỡ, da mỏng và ḍn, thịt ḍn thơm ngon rất đặc trưng, hàm lượng Cholerteron thấp, người tiêu dùng rất ưa chuộng nên bán được giá cao…
Thấy được giá trị của heo rừng, những năm gần đây, nhiều hộ gia đ́nh ở các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước… đă tổ chức thuần hoá heo rừng, tổ chức lai tạo, chăm sóc nuôi dưỡng heo rừng lai, tổ chức liên doanh, liên kết tiêu thụ sản phẩm với các nhà hàng, khách sạn ở các thành phố lớn mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Ghép đôi giao phối:
Tốt nhất, nên cho heo rừng lai cái phối giống với heo rừng đực hoặc cho heo rừng lai cái phối giống với heo rừng lai đực để tạo ra con lai thương phẩm nuôi thịt…
Phối giống và thời điểm phối giống thích hợp:
Bỏ qua 1-2 lần động dục đầu tiên, v́ cơ thể chưa hoàn thiện, trứng rụng ít, phối giống, đậu thai hiệu quả thấp.
Chu kỳ lên động dục của heo là 21 ngày, thời gian động dục kéo dài 3-5 ngày. Thời điểm phối giống thích hợp vào cuối ngày thứ 2 hoặc đầu ngày thứ 3 (tuỳ theo giống, tuổi), cho nên cần theo dơi biểu hiện của heo lên giống. Khi âm hộ chuyển từ màu hồng tươi sang màu hồng tái, có nếp nhăn và dịch nhờn tiết ra nhiều, tai chĩa về phía trước, có phản xạ đứng im (mê ́) là thời điểm phối giống thích hợp nhất.
Khi heo cái có dấu hiệu động dục ta cho heo đực vào vườn nuôi heo cái hay cho heo cái vào vườn nuôi heo đực. Heo đực sẽ phối giống liên tục, bất kể ngày đêm đến khi nào heo cái không chịu nữa mới thôi. Có thể cho phối kép 2 lần vào lúc sáng sớm và chiều mát (hoặc ngược lại). Sau 21 ngày, heo cái không động dục trở lại, có thể heo cái đă có bầu.
Chuồng trại:
Chuồng trại rất đơn giản, tuy nhiên, phải nắm vững một số đặc điểm và tập tính của heo rừng lai để bố trí chuồng trại.
Nên chọn chỗ đất cao và thoát nước để bố trí nuôi. Chỗ nuôi cũng nên có nguồn nước sạch. Nó không những cung cấp đủ nước cho heo uống mà quan trọng hơn là nó sẽ duy trì được hệ thực vật phong phú tại nơi nuôi chúng và giữ được độ ẩm thích hợp.
Chuồng trại càng cách xa khu dân cư và đường sá càng tốt. Bản năng hoang dă đă đưa chúng vào t́nh trạng hết sức cảnh giác và luôn hoảng hốt bỏ chạy khi nghe có tiếng động.
Ta có thể nuôi heo rừng lai theo kiểu nhốt trong chuồng hoặc nuôi theo kiểu thả rông trong những khu vực có cây xanh, có rào che chắn xung quanh. Điều quan trọng là hệ thống hàng rào phải hết sức chắc chắn. Ta có thể vây lưới B40 thành các vườn nuôi tự nhiên, có móng kiên cố (v́ heo rừng lai hay đào hang), mỗi vườn nuôi rộng 50-100m2 (tuỳ theo khả năng đất đai) trong đó có chuồng nuôi rộng 20 – 30m2 nuôi khoảng 4-5 heo cái trưởng thành, chúng sẽ sống và sinh sản trực tiếp trong khu vực này. Heo đực giống nuôi riêng, mỗi con một vườn, mỗi vườn nuôi rộng 40 – 50m2 trong đó có chuồng nuôi rộng 5-10m2 . Chuồng nuôi, có mái che mưa, che nắng, cao trên 2,5m, nền đất tự nhiên, có độ dốc 2-3%… đảm bảo thông thoáng, sạch sẽ, mát mẻ về mùa hè, ấm áp về mùa đông, tránh mưa tạt, gió lùa…
Với quy mô ban đầu nuôi 10 con (1 đực, 9 cái) cần có 3 vườn nuôi. Hai vườn nuôi heo cái sinh sản, mỗi vườn rộng 50-100m2 trong đó có 2 chuồng nuôi, mỗi chuồng rộng 20-30m2. Một vườn nuôi heo đực giống rộng 40-50m2 trong đó có chuồng nuôi rộng 5-10m2…
Thức ăn và khẩu phần thức ăn:
Bao gồm, thức ăn xanh tươi (cỏ, cây các loại), thức ăn tinh (hạt ngũ cốc, củ quả, mầm cây, rễ cây các loại), muối khoáng như tro bếp, đất sét, hỗn hợp đá liếm… Thực tế cho thấy, heo rừng thường tìm đến nương rẫy mới đốt kiếm tro, đất sét để ăn.
Khẩu phần thức ăn cho heo rừng lai thông thường: 50% là rau, củ, quả các loại (có thể sản xuất tại trang trại), 50% là cám, gạo, ngũ cốc các loại, hèm bia, bã đậu… Mỗi ngày cho ăn 2 lần (sáng, chiều), một con heo lai trưởng thành tiêu thụ hết khoảng 2,0 -3,0 kg thức ăn các loại.
Thức ăn cho heo rừng lai, do con người cung cấp có thể thiếu dinh dưỡng, nhất là đạm, khoáng và sinh tố… cho nên ngoài việc bổ sung thức ăn tinh giàu đạm, sinh tố, cần thiết phải bổ sung thêm đá liếm cho heo. Hỗn hợp đá liếm bổ sung khoáng có thể mua hay tự trộn theo tỷ lệ (muối ăn 100g; sắt sunphát 100g; đồng sunphát 50g; diêm sinh 100g; vôi tôi 1.000g… đất sét vừa đủ 3kg) cho heo liếm tự do cũng chỉ hết khoảng 20-25 gam/con/ngày.
Thức ăn của heo rừng lai chủ yếu là thực vật. Không nên lạm dụng thức ăn giàu dinh dưỡng để nuôi heo rừng lai v́ nó sẽ làm cho phẩm chất thịt của heo rừng lai bị biến đổi và nhiều khi làm cho heo bị bệnh tiêu chảy…
Heo ăn thức ăn xanh tươi ít uống nước, tuy nhiên cũng cần có đủ nước sạch và mát cho heo uống tự do. Nước không có ư nghĩa về mặt dinh dưỡng, nhưng có ư nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của heo, nhất là khi thời tiết nắng nóng…
Hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, dọn bỏ thức ăn thừa, rửa sạch máng ăn, máng uống…
Chăm sóc nuôi dưỡng:
Heo rừng lai thích hợp với phương thức nuôi chăn thả trong vườn cây có rào dậu hay chăn thả tự nhiên, ít có sự tác động của con người. Heo rừng lai rất dễ nuôi, hiệu quả kinh tế cao.
Khẩu phần thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống, rau, củ quả, mầm cây, rễ cây, thức ăn tinh gồm hạt ngũ cốc các loại, thức ăn bổ sung muối khoáng như tro bếp, đất sét… Ngoài ra, cũng có thể bổ sung vào chuồng nuôi hoặc vườn nuôi chăn thả một số thức ăn tinh hỗn hợp, xương, bột xương, bột ṣ, hỗn hợp đá liếm… cho heo ăn tự do có vậy thay răng nanh mới bị cùn bớt.
Heo đực giống: Quản lư và chăm sóc tốt, 1 heo đực có thể phối 5-10 heo cái. Heo đực giống phải nuôi riêng và có chế độ bồi dưỡng, nhất là thức ăn tinh giàu đạm. Ngày phối giống bổ sung thêm thức ăn tinh, 1-2 quả trứng, muối khoáng, sinh tố cho ăn tự do…
Heo cái giống: Heo rừng lai mắn đẻ, đẻ nhiều con, mỗi năm có thể đẻ 2 lứa, mỗi lứa 6-7 con, cá biệt có lứa đẻ 9-10 con và khéo nuôi con (nuôi con rất giỏi). Trong tự nhiên, khi đẻ heo mẹ tự chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và tự tách bầy khi con lớn…
Đối với heo nái mang thai, 2 tháng đầu mang thai cho ăn khẩu phần thức ăn bình thường rau, củ, quả, hạt ngũ cốc các loại… có thể bổ sung thêm thức ăn tinh hỗn hợp, 15g muối, 20g khoáng mỗi ngày. Sau 2 tháng đến khi đẻ cần thiết phải bổ sung thêm thức ăn tinh giàu dinh dưỡng, nhất là đạm, khoáng, sinh tố… Ngày heo đẻ có thể cho heo ăn cháo loăng, ít muối, ít rau xanh để đề pḥòng sốt sữa… Heo mang thai nên nuôi riêng để tiện chăm sóc nuôi dưỡng…
Đối với heo nái nuôi con, khẩu phần thức ăn phải đảm bảo số lượng, chất lượng và chủng loại. Khi heo con được 1,5-2 tháng tuổi, đã ăn được thức ăn do con người cung cấp thì cho mẹ ăn khẩu phần ăn bình thường. Không nên phối giống cho heo nái động dục trong thời kỳ nuôi con, vì khó thụ thai hoặc thụ thai nhưng số lượng và chất lượng heo con sinh ra không đạt yêu cầu.
Heo con:
Heo sơ sinh màu lông đen, có những sọc nâu vàng chạy dọc thân, không cần đỡ đẻ, cắt rốn, chỉ khoảng 30 phút đến 1 tiếng đồng hồ heo con đã có thể đứng dậy bú mẹ. 15-20 ngày chạy lon ton và bắt đầu tập ăn cỏ, cây. Heo con được 1,5-2 tháng tuổi đã cứng cáp, ăn được thức ăn do con người cung cấp thì cai sữa, tách bầy làm giống…
Heo sơ sinh có thể đạt 300-500 gr/con, 1 tháng tuổi 3-5 kg, 2 tháng tuổi 8-10 kg, 6 tháng tuổi 20-25 kg, 12 tháng tuổi có thể đạt 60-70% trọng lượng trưởng thành. Với cách nuôi và chế độ dinh dưỡng thông thường, sau 6 tháng nuôi, heo con có thể đạt trọng lượng 25 kg và bán thịt.
Hàng ngày, nên cho heo con vận động và tiếp xúc gần gũi với con người.
Công tác thú y:
Heo rừng lai là vật nuôi mới được lai tạo, sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, heo rừng lai cũng thường bị một số bệnh như: Dịch tả, tiêu chảy, tụ huyết trùng, lở mồm long móng, bệnh sán lá, bệnh ghẻ lở và một số bệnh khác…
Khi heo rừng lai mắc một số bệnh về đường tiêu hoá có thể dùng các loại thuốc trị đau bụng, sình bụng, đầy hơi, khó tiêu… Cho uống hay chích, hoặc có thể dùng 5-10 kg rau dừa dại cho heo ăn hoặc bổ sung thức ăn, nước uống đắng, chát như ổi xanh, cà rốt, rễ cau, rễ dừa… cũng có thể khỏi.
Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, ăn uống sạch sẽ, thức ăn đảm bảo vệ sinh và giá trị dinh dưỡng, chuồng trại luôn sạch sẽ… Cần áp dụng tốt các biện pháp an toàn sinh học như: Vệ sinh, sát trùng chuồng trại, cách ly khu vực chăn nuôi với các khu vực xung quanh… định ì tiêm pḥòng các bệnh truyền nhiễm như phó thương hàn, dịch tả, lở mồm long móng (FMD), E.coli, dại… theo đặc điểm dịch tễ học của vùng và qui định của cơ quan thú y.
Khi thời tiết thay đổi hoặc trạng thái sức khoẻ đàn heo có biểu hiện bệnh, cần thiết phải bổ sung kháng sinh vào thức ăn hoặc nước uống cho heo theo quy tình ” dùng thuốc 3 ngày, nghỉ 7 hoặc 10 ngày, rồi dùng tiếp 3 ngày”, cứ thế cho đến khi đàn heo trở lại bình thường, với liều pḥòng chỉ bằng 1/2-1/3 liều điều trị…
Ngô Ngọc Thuần Vietnamgateway
Kỹ Thuật Chăn Nuôi Gà Mía Lai
Gà mía có khả năng chống chịu rét rất tốt, thời gian sinh trưởng ngắn chỉ sau 4 tháng là có thể xuất chuồng. Trọng lượng trung bình đạt từ 1,6 – 2,2kg phù hợp với nhu cầu thức ăn cho 1 gia đình nên gà bán rất được giá.
Tốc độ tăng trưởng của gà mía lai
Giai đoạn gà mía từ 40 – 42 ngày tuổi cho trọng lượng đạt 0,6 – 0,8kg/con, 72 ngày tuổi đạt 1,3 -1,5kg/con, 90 ngày tuổi đạt trọng lượng 2,2 kg/con.
Gà mía chăn nuôi theo mô hình thả vườn sẽ mang lại nhiều lợi thế cho bà con : chi phí đầu tư xây dựng chuồng trại thấp, tiết kiệm được nhiều chi phí cho nguyên vật liệu chăn nuôi (điện, nước, quạt thông gió, sử dụng ít chất độn chuồng).
Đặc điểm và ngoại hình của gà mía lai
Gà Mía lai có lông màu vàng đậm xen lẫn màu đen ở cánh, đuôi, đầu và chân nhỏ, da mỏ và chân có màu vàng, mào cờ. Mình ngắn, đùi to và thô, mắt sâu, chân có 3 hàng vảy, sắc lông gà trống màu tía, gà mái màu nâu xám hoặc vàng. Là loại ít bị pha tạp so với các giống gà nội khác.
Có tốc độ mọc lông chậm, khi gà được 3 tháng có tỷ lệ nuôi sống đạt 96%.
Năng xuất đẻ trứng thấp, tuổi đẻ muộn 7-8 tháng cho sản lượng trứng là 50 -55 quả/ mái/năm.
Kỹ thuật chăn nuôi gà mía lai
Gà mía là giống gà thích hợp thả vườn nên có cách nuôi khác với gà công nghiệp. Để gà mía cho hiệu quả năng suất cao nhất bà con không những cho gà ăn cám mà còn bổ sung thêm nhiều thức ăn dân dã như ăn thóc, cám gạo, ngô nghiền, rau xanh, bổ sung các loại khoáng, vitamin, nhất là gà ở giai đoạn đẻ trứng và vỗ béo để nâng cao sức đề kháng cho gà.
Chuồng trại phải có sân chơi rộng rãi, có hàng rào bảo vệ khỏi chó, mèo, chuột, vệ sinh chuồng trại thường xuyên, thực hiện quy trình phòng bệnh nghiêm chỉnh đúng độ tuổi.
Chăn nuôi gà mía hiện đang rất phát triển tại nhiều khu vực, cho thu nhập cao và giải quyết việc làm cho hàng ngàn hộ gia đình. Trước khi chọn nuôi bà con chú ý đến thời điểm các dịp lễ để bán được giá hơn.
Bạn đang xem bài viết Kỹ Thuật Nuôi Cá Trê Vàng Lai trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!