Xem Nhiều 5/2023 #️ Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Chiến Trong Truyện Ngắn Những Đứa Con Trong Gia Đình (Đoạn Trích Được Học) Của Nguyễn Thi # Top 12 Trend | Ruybangxanh.org

Xem Nhiều 5/2023 # Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Chiến Trong Truyện Ngắn Những Đứa Con Trong Gia Đình (Đoạn Trích Được Học) Của Nguyễn Thi # Top 12 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Chiến Trong Truyện Ngắn Những Đứa Con Trong Gia Đình (Đoạn Trích Được Học) Của Nguyễn Thi mới nhất trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Nguyễn Thi sinh ra và lớn lên ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, một vùng quê đất Bắc nhưng ông đặc biệt gắn bó máu thịt với nhân dân miền Nam bằng một tình cảm ân tình thủy chung sâu sắc. Tình cảm sâu nặng đó được ông gửi vào trong từng trang viết về miền Nam. ông được trân trọng mệnh danh là nhà văn của những người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Hiện thực nóng bỏng, ác liệt ở mặt trận miền Đông Nam Bộ luôn là đề tài nóng hổi cho những sáng tác của Nguyễn Thi. Một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông ra đời trong những ngày đấu tranh chống Mĩ cứu nước đầy khó khăn, gian khổ là Những đứa con trong gia đình. Tác phẩm viết về trong dòng hồi tưởng đứt nối, mê tỉnh của nhân vật Việt khi bị thương nằm lại giữa chiến trường. Cũng từ những dòng tâm tư mê man ấy hiện lên thật sinh động hình tượng nhân vật Chiến – chị gái của Việt. Đây là một cô gái vừa mang trong mình những vẻ đẹp đời thường vừa mang những phẩm chất anh hùng.

Chiến là một cô gái 19 tuổi được thể hiện với nhiều nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam một thời đánh Mĩ. Trước hết, đó là vẻ đẹp trong đời thường. Tuy vẫn có lúc Chiến rất trẻ con như tranh công bắt ếch, tranh công bắn tàu giặc, tranh đi tòng quân với em,… nhưng lúc nào cũng nhớ mình là chị, nhường em tất cả, thương em, lo cho em. Chiến đã sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Cách mạng, có mối thù sâu nặng với bọn cướp nước: ông nội với người cha là Tư Năng đều chết bởi tay kẻ thù, còn người mẹ gan góc đảm đương gánh vác chuyện nuôi dạy đàn con cũng đã chết vì đạn Mĩ. Chính vì thế, cô đã thể hiện tinh thần hăng hái lên đường giết giặc. Chiến xung phong tòng quân để trả thù cho người má chết vì đạn pháo. Ở Chiến, thù nhà gắn quyện với nợ nước. Thường ngày Chiến với Việt vẫn hay tranh giành nhưng lần này, Chiến đã không nhường em như mọi lần mà quyết chí ra đi. Chuyện này đâu có nhường được vì Chiến rất thương em, không muốn em phải xông pha đánh giặc nơi bom đạn nguy hiểm nhưng sâu xa hơn là trong Chiến luôn có một niềm khao khát được đánh giặc để trả thù cho gia đình và quê hương. Với Chiến, đó không chỉ là biểu hiện quyết tâm, thái độ mà nó còn chuyến hóa thành việc làm cụ thể. Chiến đã đi vận động chú Năm để được tham gia quân ngũ, được trở thành người chiến sĩ. Nguyễn Thi trong Người mẹ cầm súng đã thể hiện người anh hùng út Tịch trên hai tư cách: người chiến sĩ và người mẹ với nỗi lo việc nước, việc nhà. Còn ở nhân vật Chiến, ta cũng thấy nét đẹp của người chiến sĩ hăng hái lên đường, đồng thời ta còn thấy nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam sắp đặt việc nhà. Chiến là chị cả trong một gia đình đã chẳng còn ba má. Cô gái ấy mới 19 tuổi mà gánh vác đầy đủ những trọng trách của một người mẹ. Đêm trước ngày lên đường, Chiến đã không ngủ được, sắp tới đây bao nhiêu chuyện phải lo. Không phải Chiến lo sợ, lo lắng mà là lo liệu, lo toan, bởi lẽ việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non… Làm sao có thể ra trận chiến đấu lập công trong khi việc nhà còn bề bộn. Từ đây ta mới hiểu được vì sao Nguyễn Thi đã kể ra biết bao việc mà Chiến phải lo liệu, càng nhiều việc phải lo càng thấy Chiến đảm đang: nào là viết thư cho chị Hai, lo chỗ ăn chỗ học cho thằng út,… Đặc biệt, cô cũng là một người con rất thương cha mẹ. Trước ngày lên đường nhập ngũ, cô đã cùng Việt khiêng bàn thờ má gửi sang nhà chú Năm. Có thể nói, đoạn văn miêu tả hình ảnh hai chị em khiêng bàn thờ má đi gửi là đoạn văn hay nhất của tác phẩm trong không khí thiêng liêng, xúc động. Hình ảnh này có ý nghĩa tượng trưng, thể hiện sự trưởng thành của hai chị em có thể gánh vác việc gia đình và viết tiếp khúc sông của mình trong dòng sông truyền thống gia đình. Hơn thế nữa, hình ảnh này cũng nói lên một điều: thế hệ sau sẽ cứng cáp, trưởng thành và có thể đi xa hơn thế hệ trước. Có thể nói rằng nhân vật Chiến đã được thể hiện với những nét đẹp truyền thống muôn đời của người phụ nữ Việt Nam. Chiến không chỉ lo cho ngày giỗ, lo chuyển bàn thờ cho má mà trong mọi chuyện chị ấy đều đã hỏi ý kiến của Việt bởi Việt là con trai lớn trong gia đình. Người chị ấy. lại có nét bộc trực, chất phác đồng thời cũng rất đằm thắm trong việc biểu hiện tình cảm khi nói với Việt: Em có ừ không ? Rồi Em cũng ừ nghen,… Trước lúc lên đường tòng quân, Chiến như bỗng trở nên nghiêm trang hơn, già dặn hơn nhưng cũng lại đằm thắm hơn.

Chiến mang trong mình vẻ đẹp của người con gái Việt Nam thời chống Mĩ: trẻ trung, duyên dáng, đáng yêu nhưng cũng rất mực anh hùng dũng cảm. Cô đã tiếp nối và làm rạng rỡ truyền thống đánh giặc cứu nước của gia đình và đó cũng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nguyễn Thi đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật nữ anh hùng trong thời đại đánh Mĩ.

Phân Tích Nhân Vật Chiến Trong Tác Phẩm Những Đứa Con Trong Gia Đình

Những năm tháng chiến tranh đã lùi xa, song những vết thương chiến tranh vẫn còn đọng lại cùng năm tháng. Những ngày tháng chiến tranh ấy ta cũng có thể tìm thấy trong truyền ngắn “Những đứa con trong gia đình”. Đặc biệt nhân vật chị Chiến được tác giả xây dựng để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.

Cũng giống như nhân vật Việt, chị Chiến sinh ra trong một gia đình nông dân Nam Bộ giàu truyền thống yêu nước. Ở chị, hội tụ nhiều vẻ đẹp về tính cách cũng như tâm hồn.

Chị Chiến kế thừa những đặc điểm của mẹ. Chị hiện lên với “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng”, “thân người to và chắc nịch”. Đó là vẻ bề ngoài của một con người lo toan, gánh vác chịu đựng gian khổ. Chị Chiến giống mẹ từ cử chỉ đến điệu bộ, thói quen, cách nói năng. Chính Việt cũng nhận ra rằng “chị nói in như má vậy”.

Đặc biệt, chị Chiến kế thừa từ má những đức tính đảm đang, tháo vát. Khi má mất, chị thay má lo toan, quán xuyến mọi việc trong nhà. Trong cái đêm trước khi đi tòng quân, Việt phó thác mọi việc trong nhà cho chị, nằm kềnh ra ván cười khì khì … thì chị Chiến sắp xếp mọi công việc chu đáo, cẩn thận. Chị nói bằng “cái giọng rành rọt tiếng nào ra tiếng nấy”. Điều đó chứng tỏ một điều rằng chị đã suy nghĩ rất kĩ càng trước khi bàn bạc với em. Chiến sắp xếp từ những việc nhỏ nhất đến việc hệ trọng, không bỏ qua bất cứ điều gi từ việc bé đến việc lớn trong gia đình: viết thư cho chị Hai, gửi thằng út em nhờ chú nuôi giúp, cho xã mượn nhà…Thậm chí những công việc như đem “nồi lu, chén đĩa …” sang gửi chú. Chiến tỏ rõ là người có trách nhiệm, là một người chị thay mặt ba má thu xếp việc nhà trước khi đi làm việc nước.

Chiến là người con gái có cá tính mạnh mẽ, quyết liệt. Câu nói của chị đã chứng minh điều ấy: “nếu giặc còn thì tao mất”. Lời nói của chị chứa đựng lòng căm thù giặc sục sôi, ý chí chiến đấu mãnh liệt, lòng quyết tâm tiêu diệt đến cùng. Chiến lên đường nhập ngũ với khí phách không thua kém gì những người con trai. Chị khắc ghi lời dạy của chú Năm. Chị nói với Việt: “Chú Năm nói….chú chặt đầu”. Lời nói đó của chị như một lời hứa, lời thề với chính bản thân cũng như với những người đi trước. Chị Chiến quyết tâm chiến đấu đến cùng, chừng nào chưa được trả thù nhà thì chị chưa về. Cũng giống như má của mình, chị Chiến sáng ngời những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang…

Chị Chiến còn là người rất giàu tình cảm. Chị thương hết mực cậu em trai mình. Chị thường nhường nhịn Việt. Khi bảo Việt viết thư cho chị Hai, Việt không viết, chị liền viết thay em. Duy nhất, chỉ có việc ghi tên đi tòng quân là chị không nhường Việt. Bởi vì chị Chiến lo lắng co Việt, không muốn em mình phải đối mặt với những hiểm nguy. Chị muốn việt ở nhà lo mọi việc cùng với chú Năm. Tuy nhiên, bên trong con người chị Chiến vẫn có giữ được những nét nữ tính. Chị thường để một chiếc gương trong túi. Đó là nhu cầu làm đỏm, làm đẹp mà bất cứ cô gái nào đều yêu thích. Điều này cũng cho thấy rằng, Nguyễn Thi là một nhà văn rất am hiểu tâm lý con người, đặc biệt là tính cách và tâm hồn của chị Chiến.

Có thể nói rằng, chị Chiến và Việt là những nhân vật tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam những năm khánh chiến chống Mỹ cứu nước. Chị và Việt đều bước tiếp và phát huy những truyền thống yêu nước vốn có của gia đình, xứng đáng với sự kì vọng của Chú Năm. Và cũng không thể không nhắc tới sự thành công trong việc miêu tảm xây dựng ngoại hình và tính cách nhân vật rất thành công của Nguyễn Thi. Nhân vật chị Chiến cũng để lại nhiều tình cảm yêu mến trong lòng người đọc.

Download “Phân tích nhân vật Chiến trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình” 6BxEp – Downloaded 124 times –

Phân Tích Quan Niệm Sống Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Trong Bài Thơ Nhàn

Bài văn mẫu lớp 10 hay nhất

Phân tích quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn là tài liệu văn mẫu lớp 10 hay dành cho các bạn tham khảo, nhằm hiểu hơn về triết lí nhân sinh được tác giả thể hiện qua bài thơ. Chúc các em học tốt!

Bài văn mẫu Phân tích quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ làm quan tám năm sau đó trở về ở ẩn. Bởi vậy, thơ ca của ông thấm đượm triết lí sống nhàn. Sự nghiệp sáng tác của ông cho thấy quan niệm sống nhàn hết sức phong phú, phức tạp. Và trong bài thơ Nhàn đã phần nào thể hiện được sự phong phú về quan điểm sống ấy.

Trước hết, quan điểm sống nhàn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện ở lối sống hòa hợp, thuận theo tự nhiên:

“Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Trong câu thơ đầu tác giả dùng điệp từ “một”, kết hợp phép lặp cấu trúc: số từ cộng danh từ (mai, cuốc, cần câu) và nhịp thơ nhẹ nhàng 2/2/3 cho thấy nhịp điệu đều đặn, thong thả của cuộc sống. Qua đó thấy được phong thái sống bình dị, vui vẻ với thú điền viên. Ông đã sử dụng từ láy “thơ thẩn” hết sức tài tình, cho thấy sự an nhàn, thư thái trong tâm hồn. Hai câu thơ đầu đã hé mở lối sống, quan niệm sống nhàn của Trạng Trình, nó được thể hiện ở lối sống giản dị, ung dung, thảnh thơi, lánh xa cuộc sống đua chen vật chất, chức tước tầm thường.

Lối sống nhàn đó tiếp tục thể hiện trong cung cách sống của ông:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Câu thơ với nhịp 1/3/1/2 kết hợp với nghệ thuật đối cho thấy nhịp độ sinh hoạt đều đặn, thường xuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời chỉ với hai câu thơ nhưng tác giả đã vẽ nên bức tranh tứ bình thật độc đáo: xuân – tắm hồ sen, hạ – tắm ao, thu – măng trúc, đông – giá. Ông không lấy hoa cúc, phong, lựu,… để miêu tả về các mùa như các nhà thơ khác:

“Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” “Dưới trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”

(Nguyễn Du)

Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy các sự vật hết sức giản dị, gần gũi để làm nổi bật lên nét đặc trưng riêng của từng mùa. Thức ăn là những sản vật có sẵn xung quanh tác giả, mang đậm bản chất thôn dã. Đó là những sản vật do con người làm ra hoặc thiên nhiên ban tặng. Sinh hoạt của ông cũng hết sức nhịp nhàng, tuần hoàn theo dòng chảy của thời gian: tắm hồ sen, tắm ao. Cung cách sống thật khiêm nhường, bình dị của một bậc trí thức đại tài. Mọi nhu cầu của cuộc sống luôn được đáp ứng đủ không thừa cũng không thiếu. Cuộc sống tuy có phần đạm bạc nhưng hết sức thanh nhàn, giải phóng con người khỏi phường danh lợi, đem con người đến gần hơn với tự nhiên, hòa hợp với vạn vật. Với lối sống này, Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự gặp gỡ với thi hào Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV:

Ao cạn vớt bèo cấy muống Đìa thanh, phát cỏ, ươm sen

Cuộc sống tự do, thảnh thơi, ung dung, tự tại mà biết bao bậc Nho sĩ mơ ước hướng đến.

Nhàn đối với ông còn là xa rời phương danh lợi, quyền quý để giữ cốt cách thanh cao:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao

Nơi vắng vẻ và chốn lao xao là hai hình ảnh biểu tượng cho hai không gian sống khác nhau. Nơi vắng vẻ là nơi thiên nhiên tĩnh lặng, xa lánh cuộc đời đầy bon chen, đố kị, khiến cho tâm hồn con người trở nên thanh thản. Ngược lại chốn lao xao là nơi cửa quyền “ra luồn vào cúi” bon chen, con người luôn tìm mọi cách để chèn ép, hãm hại nhau hòng đạt được danh lợi. Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật đối tài tình, Ta dại tìm nơi vắng vẻ đối với người khôn đến chốn lao xao. Hai vế hướng đến hai cách sống khác nhau: dại tìm về cuộc sống sơn cước, ung dung tự tại, nhàn thân, dại ấy mà lại hóa là dại khôn; khôn tìm đến chốn lao xao đua chen tranh dành, khôn ấy lại thành dại. Nói về dại, khôn cũng được ông thể hiện ở nhiều bài thơ khác:

Khôn mà hiểm độc là khôn dại Dại vốn hiền lành ấy dại khôn

Cách nói ngược đã khẳng định phương châm sống xa lánh nơi quyền quý, tìm nơi sống an nhàn để giữ gìn cốt cách thanh cao vốn có của mình, đồng thời cũng là thái độ không chạy theo lối sống bon chen danh lợi, quyền quý.

Nhưng bản chất chữ Nhàn của Nguyễn Bỉnh khiêm lại có điểm rất khác với nho sĩ ẩn dật khác. Ông nhàn thân mà không hề nhàn tâm. Dù thân nhàn nhưng ông vẫn canh cánh nỗi lòng:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Câu thơ đã nhắc đế một điển tích: Thuần Vu Phần uống rượu say mơ thấy mình được đến nước Hòe Nhai và tìm được cây công danh, phú quý. Khi tỉnh giấc ông chỉ thấy trước mắt là một tổ kiến. Lấy điển tích đó cho thấy thái độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm: ông tìm đến rượu không phải để uống xong để mơ giấc mộng công danh mà để tỉnh tảo, để nhận ra chân lí: phú quý cũng chỉ như một giấc chiêm bao. Nhận thức đó cho thấy phú quý danh lợi không phải là cái đích cuối cùng trong cuộc đời mỗi người, cái tồn tại với con người mãi mãi chính là nhân cách, phẩm chất cao đẹp. Hai câu kết như một lời khẳng định chắc chắn về ý nghĩa của triết lí sống nhàn. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống nhàn là cách để giữ gìn nhân cách, tu tâm dưỡng tính, có được sự thảnh thơi, thư thái trong tâm hồn. Đồng thời ta cũng cần phân biệt “nhàn” ở đây là một triết lí, phương châm sống, nhàn là sự thư thái trong tâm hồn.

Bài thơ với thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngắn gọn, hàm súc, ngôn ngữ thơ giản dị đã thể hiện một cách đầy đủ, trọn vẹn triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là lối sống thanh cao, khí tiết, hòa hợp, thuận theo tự nhiên, đồng thời tránh xa phường danh lợi. Lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh lúc bấy giờ là lối sống tích cực để giữ gìn nhân cách trong sáng.

Bài văn mẫu Phân tích quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ Nhàn sẽ giúp các bạn học tốt hơn môn Ngữ văn 10. VnDoc xin giới thiệu thêm tới các bạn học sinh tài liệu Đề thi học kì 1 lớp 10, Soạn bài lớp 10, Học tốt Ngữ văn 10, Tài liệu học tập lớp 10 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải để đạt kết quả cao trong học tập.

Bình Giảng Đoạn Thơ Sau Trong Bài Đất Nước Của Nguyễn Đình Thi: Sáng Chớm Lạnh Trong Lòng Hà Nội Những Phố Dài Xao Xác Hơi May Người Ra Đi Đầu Không Ngoảnh Lại Sau Lưng Thềm Nắng Lá Rơi Đầy

Nếu Đây mùa thu tới của Xuân Diệu gieo cho người đọc sự thán phục về sức nhạy cảm của giác quan con người lúc giao thời, Thu vịnh của Nguyễn Khuyến gieo cho ta cảm giác tươi mát trong trẻo của cảnh trời thu xanh ngắt thì Đất nước với mùa thu “xao xác hơi may” và “thềm nắng lá rơi đầy” đi vào lòng người đọc với một tình cảm thật sâu lắng, cao đẹp bằng nỗi nhớ của Nguyễn Đình Thi về Hà Nội năm xưa.

Theo xuất xứ của bài thơ thì đây hẳn là nỗi nhớ của tác giả về thu Hà Nội năm xưa, tôi như thấy hình ảnh của một người chiến sĩ ở núi rừng Việt Bắc đang nhớ về Hà Nội.

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may.

Một từ “chớm” đứng trước từ “lạnh” diễn tả rất đúng cái cảm giác của tác giả khi Hà Nội vào thu. Cái lạnh mới đến nên còn e ấp sẽ sàng, như ngọt ngào báo hiệu. Thế là mùa hạ nồng nực với những cơn nắng đổ lửa đã đi xa rồi, mùa thu mới vừa đến sáng nay…

Thu đã đến thật trong lòng Hà Nội, trong không gian hoa cỏ của Hà Nội… hay chính trong lòng người?

Cái từ “chớm lạnh” thật “đắt” đã diễn tả niềm cảm xúc mãnh liệt của Nguyễn Đình Thi thật trọn vẹn. Phải chàng tác giả cũng đồng ý với câu: “Một con én không dệt nổi mùa xuân nhưng khi xuân đến là lúc có chim én bay liệng”, ở đây cũng vậy, có “chớm lạnh” mới biết thu sang. Tôi nhớ một nhà thơ Trung Quốc đã từng có câu:

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu.

có nghĩa là ngô đồng rơi một lá, ai cũng biết thu sang. Thế đấy! Chỉ cần một lá ngô đồng rụng cũng đủ biết mùa thu đã đến rồi!

Những phố dài xao xác hơi may…

Gió thổi dài trên phố như kéo dài không gian ra, không gian dài, phố càng dài hơn, buồn hơn và vắng lặng hơn, chỉ có gió rong ruổi mải miết trên phố vắng. Mà nó cũng chưa thật là gió, đó chỉ là hơi may – hơi thở của mùa thu mà thôi. Từ “xao xác” trong câu thơ cũng làm lòng ta xao xác vì buồn, ở đây, tác giả muốn nhạn mạnh từ “xao xác” mới phù hợp với “hơi may”.

Người ra đi đầu không ngoảnh lại.

Đầu không ngoảnh lại mà biết được sau lưng, biết một cách rất rõ thì quả là rất lạ! Lạ nhưng vẫn rất hợp lí, nhất là hợp tình.

Người đi? Ừ nhỉ người đi thực?

Mẹ thà coi như chiếc lá bay Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say.

Với sự dứt khoát đến vậy thì mấy ai nghĩ rằng cuộc tiễn đưa ấy đã “Đầy hoàng hôn trong mắt trong”? Có mấy ai nghĩ rằng lòng người ra đi cũng đang “có tiếng sóng” dù không được tiễn qua sông? Ở đây cũng thế, tuy “ra đi đầu không ngoảnh lại” nhưng làm sao tránh khỏi bịn rịn, không chút xao xác buồn khi chia xa Hà Nội nơi có nhiều kỉ niệm gắn bó, nơi đẹp đến thế, thân yêu đến thế, Hà Nội với ba mươi sáu phố phường, với hàng ngàn năm lịch sử, bất cứ nơi đâu bạn cũng có thể nghe kể về một truyền thuyết hoang đường hoặc một danh nhân nổi tiếng… Đáng yêu đáng nhớ đến vậy thì làm sao không buồn khi cách xa.

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Người ra đi quả thực kì lạ, dường như có giác quan thứ sáu ở sau lưng để quan sát mọi việc xảy ra. Giác quan ấy hẳn là giác quan “yêu thương” đặc biệt mà chỉ có Nguyễn Đình Thi mới có được.

Tiết tấu, nhịp điệu câu thơ rất lạ, bảy tiếng đều đặn như tiếng lá rơi ở thềm nắng, như lắng đọng trong lòng người đi cảm giác mãnh liệt đang trỗi lên.

Câu thơ như nhịp bước đầy dặn của người đi đầy quả quyết mà lưu luyến, lặng lẽ mà xao động, đầu không ngoảnh lại mà lòng người mãi hướng về…

Hẳn là người ra đi đang cố nén xúc động, sợ ánh mắt phải bắt gặp cảnh cũ, lòng sẽ không thể xa rời người ấy đang cố tạo cho mình sự bình thản nhưng có ai biết lúc ấy, người đang cố giấu che những giọt nước mắt đang rơi mằn mặn bờ môi? Tất cả chỉ mong có kẻ nào đó ở lại quê nhà yên lòng dù người đi đang tan nát lòng, đang tắt nghẹn trong hơi thở…

Lá rơi hay thềm nắng hiên nhà đang rơi và cả tâm hồn người đi nữa cũng đang rơi vào một khoảng không sâu thẳm mênh mông không nơi bám víu.

Có mùa thu nào mới chớm đẹp như thu Hà Nội chăng? Có nỗi buồn nào sâu lắng hơn nỗi buồn chia tay này chăng? Phải yêu Hà Nội đến cháy lòng mới có được cái cảm xúc mãnh liệt mà sâu lắng tuyệt vời đến thế!

Đoạn thơ thật ngắn ngủi với bốn câu thơ theo lối thơ tứ tuyệt đường luật, tác giả không tả nhiều về Hà Nội nhưng lại bộc lộ thành công cái tình cảm yêu thương Hà Nội mãnh liệt của người đi. Bằng sự chân thật trong tận tâm hồn, Nguyễn Đình thi đã tạo được những vần thơ rất tuyệt vời về mùa thu, về khung cảnh và hơn hết đó là tấm lòng mà tác giả chỉ dành riêng cho Hà Nội.

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Chiến Trong Truyện Ngắn Những Đứa Con Trong Gia Đình (Đoạn Trích Được Học) Của Nguyễn Thi trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!