Top 10 # Mùa Sinh Sản Của Gà Lôi Trắng Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 4/2023 # Top Trend | Ruybangxanh.org

Gà Lôi Trắng Là Gì? Đặc Điểm Sinh Sản Và Giá Gà Lôi Rừng

Gà lôi trắng là một loài chim lớn, có chiều dài khoảng 125 cm. Khi còn nhỏ gà trống và gà mái đều mang chung 1 màu lông, đó là màu nâu ngoài ra có những dải lông màu đen.

Ở bài viết này Chim Việt Nam sẽ giúp bạn tìm hiểu về đặc điểm sinh sản của Gà lôi trắng, phân biệt gà lôi trắng mái và giá gà lôi rừng hiện nay trên thị trường.

Phân biệt gà lôi trắng trống và mái

Gà lôi rừng mái giữ nguyên màu lông này nếu có thay đổi cũng không đáng kể suốt cuộc đời mình, thường chuyển sang màu oliu.

Gà lôi trống đến tuổi thành niên sẽ bắt đầu thay lông để chuyển sang màu trắng, Thông thường phải mất gần 2 năm tuổi,gà lôi trống mới thành thục hẳn lúc đó mào có màu đen dài, cằm và họng đen.

Gà lôi trắng trống có đặc điểm là bụng hơi xanh đen, hoặc trắng đây là giống gà lôi rừng trắng tìm thấy tại Việt Nam. Phần còn lại của cơ thể là màu trắng.

Đuôi của gà lôi trắng trống khá dài thông thường từ 40 đến 80 cm. Mặt có màu đỏ nhung với 2 dải mào phủ kìn, ghân gà có màu đỏ tía. Gà lôi trắng sống ở các khu vực rừng miền núi ở lục địa Đông Nam Á và Trung Quốc trong đó có.

Các giống gà lôi trắng

Hiện nay đang có 15 phân loài gà lôi trắng được công nhận phân bố từ đông Myanma đến Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc. Hầu hết các phân loài còn phổ biến trong hoang dã, riêng các phân loài whiteheadi ở Hải Nam, engelbachi ở nam Lào và annamensis ở miền Nam Việt Nam khá hiếm và đang bị đe dọa.

Đặc điểm của giống gà lôi Việt Nam

Theo nghiên cứu của Sở Khoa học Công nghệ Ninh Bình tại Trung tâm cứu hộ bảo tồn và phát triển sinh vật. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành lập và điều tra số lượng gà Lôi trắng tại rừng đặc dụng Cúc Phương được 20 tuyến, số cá thể gà lôi phát hiện được là 86 cá thể, mật độ TB1.3 con/ha, điều kiện sinhn cảnh thường gặp (41.5 % là rừng thứ sinh, 58.5% là trảng cỏ, cây bụi).

Nhóm cũng đã sưu tập được 20 gà lôi trắng 24 tháng tuổi, trong đó có 10 trống và 10 mái đủ tiêu chuẩn làm giống, đàn gà được nuôi nhốt tại trại gà giống Cúc Phương, bước đầu thích nghi tốt trong điều kiện nuôi nhốt.

Theo nghiên cứu, bước đầu đã xác định được một số đặc điểm ngoại hình của gà Lôi trắng từ giai đoạn sơ sinh cho tới 24 tuần tuổi.

Gà Lôi trắng mới sinh có trọng lượng tương đối nhỏ, trung bình đạt 35 gram/con, tuy nhiên đến gia đoạn 24 tuần tuổi trọng lượng gà đã đạt TB 397 gram/con. Đàn gà theo dõi sinh trưởng và phát triển tốt.

Gà Lôi trắng mái đẻ trung bình 9 quả/mái/năm, Tỷ lệ có phôi 84.1%, tỷ lệ con sơ sinh khi ấp bắng mấy ấp công nghiệp đạt 75.5%, tỷ lệ khoẻ mạnh 92.5%. Mùa sinh sản của gà lôi trắng được ghi nhận bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 4 dương lịch hàng năm. Thời gian ấp trứng kéo dài từ 23-24 ngày.

Gà có khả năng kháng bệnh cao, việc sử dụng vắc xin lasota và vắc xin newcatson phòng bệnh cho gà Lôi trắng bước đầu cho hiệu quả nhất định, qua theo dõi chưa thấy xuất hiện bệnh gà rù trên đàn gà nuôi nhốt tại Vườn quốc gia Cúc Phương.

Giá gà lôi trắng trên thị trường

Gà lôi trắng mái: Giá từ 500.000đ đến 750.000đ/kg tùy lứa tuổi.

Gà lôi trắng trống: Giá từ 950.000đ đến 1.300.000đ/kg tùy lứa tuổi và độ thuần chủng.

Chim Việt Nam

Bảo Tồn Nguồn Gen Gà Lôi Trắng Góp Phần Phát Triển Đa Dạng Sinh Học

Ông Hoàng Xuân Thủy, Phó Giám đốc Trung tâm cứu hộ, bảo tồn và phát triển sinh vật

PV: Được biết, trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra ngày một khắc nghiệt, việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để thích nghi, phát triển là rất cần thiết. Với việc bảo tồn nguồn gen và phát triển những động vật quý hiếm không chỉ góp phần phong phú nền đa dạng sinh học tại địa phương mà còn đẩy lùi được những yếu tố cực đoan do môi trường gây ra, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế. Vậy, với đề tài “Nghiên cứu bảo tồn nguồn gen gà Lôi trắng tại Vườn quốc gia Cúc Phương, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình” nói riêng và bảo tồn đa dạng sinh học nói chung có vai trò quan trọng như thế nào, thưa ông?

Ông Hoàng Xuân Thủy: Theo tôi, đa dạng các giống động vật cần được duy trì cho tiềm năng kinh tế để có thể đáp ứng một cách nhanh chóng các thay đổi của thị trường, sở thích người tiêu dùng hay các điều kiện môi trường. Đa dạng các giống động vật có vai trò văn hóa xã hội quan trọng. Động vật là phần không thể thiếu trong các nghi lễ và tập quán của các nhóm dân tộc. Trong xã hội hiện đại, chúng còn là những thú tiêu khiển. Các công viên trang trại có thể phục vụ mục đích giảng dạy cho người thành phố. Ngành du lịch có thể là quan trọng đối với nhiều quốc gia, trong đó du lịch môi trường mà các giống vật nuôi địa phương là một phần không thể thiếu.

Đa dạng các giống động vật là một phần không thể thiếu của hệ thống kinh tế nông nghiệp. Nếu giảm sự đa dạng này sẽ gây ra rủi ro cao hơn trong hệ thống sản xuất, giảm khả năng đáp ứng với các thay đổi, suy thoái và cuối cùng dẫn đến phá hủy môi trường. Các hệ thống sản xuất có đầu vào trung bình, nhập nội các giống vật nuôi là những đặc điểm nổi bật trong sản xuất thực phẩm ở các nước đang phát triển. Duy trì và phát triển các giống đã thích nghi là yếu tố quan trọng đảm bảo đa dạng các giống vật nuôi một cách bền vững mà không gây ảnh hưởng bất lợi đến môi trường.

Đa dạng các giống vật nuôi rất quan trọng đối với việc đáp ứng các nhu cầu trong tương lai. Nếu chỉ dựa vào một vài giống vật nuôi có nghĩa là chỉ tập trung vào một số lượng ít các giống, sẽ làm mất đi một số gen đặc biệt là các gen đã thích nghi với môi trường, làm giảm sự kết hợp của gen. Những rủi ro này không biểu hiện ở hiện tại, nhưng có thể biểu hiện trong tương lai. Bảo tồn đa dạng các giống vật nuôi sẽ giảm các rủi ro, đồng thời tăng an toàn thực phẩm.

Đa dạng các giống động vật có lợi cho nghiên cứu và đào tạo. Điều này có thể bao gồm các nghiên cứu sinh học cơ bản về khả năng miễn dịch, yêu cầu về dinh dưỡng, khả năng sinh sản để bảo tồn, bản chất di truyền và khả năng thích nghi với sự thay đổi khí hậu và môi trường khác nhau. Về mặt di truyền, các giống khác nhau rất cần trong nghiên cứu tính nhạy cảm và khả năng kháng bệnh, giúp hiểu sâu hơn các cơ chế và phát triển các liệu pháp hay cách điều trị tốt hơn. Hoạt động bảo tồn còn phục vụ cho việc tào đạo tất cả những người tham gia. Điều này sẽ làm cho họ có ý thức cũng như kiến thức tốt hơn, đồng thời giảm thiểu rủi ro.

Bảo tồn nguồn gen gà Lôi trắng góp phần phát triển đa dạng sinh học

PV: Vâng, hiện nay có rất nhiều loài động vật quý hiếm bị suy thoái, đa dạng sinh học đang bị mất dần trong bối cảnh thời tiết, môi trường khắc nghiệt. Là một chuyên gia lâu năm, xin ông cho biết nhận định về tình hình thực tế hiện nay ở nước ta?

Ông Hoàng Xuân Thủy: Hiện nay, Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đang nổi cộm lên hiện tượng suy thoái, mất dần tính đa dạng sinh học của các loài động vật. Nhiều loài động vật quý, có quá trình thích nghi lâu đời với điều kiện khí hậu ở nước ta đang bị mai một, thậm chí tuyệt chủng. Nước ta có khoảng 275 loài thú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 2470 loài cá, 5500 loài côn trùng… tính độc đáo của sự đa dạng sinh học này là rất cao. Có 10% loài thú, chim và cá của thế giới tìm thấy ở Viêt Nam. Ngày nay do việc tăng dân số cùng với tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá làm cho diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, dẫn đến một số loài chim, thú có nguy cơ bị tuyệt chủng. Các nhà khoa học cho biết, nước ta có tới 28% loài thú, 10% loài chim, 21% loài bó sát và lưỡng thê đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Trong số 53 loài động vật quý hiếm đưa vào sách đỏ Việt Nam thì có 10 loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, 18 loài ở tình trạng nguy cấp, 22 loài thuộc diện hiếm, 3 loài thuộc loại thoát hiểm. Sự tuyệt chủng này gần đây xảy ra rất nhanh theo tốc độ phát triển của kinh tế thị trường và đô thị hoá.

Trong xu thế trên, sự mai một các loài vật nuôi và các loài hoang dã ở các địa phương trên toàn quốc đang ở mức trầm trọng. Trước tình hình đó, nhà nước ta đã có nhiều dự án nghiên cứu bảo tồn, phát triển nhiều loài động vật bản địa. Đây là các loài mang nhiều đặc điểm quý như khả năng chống chịu bệnh cao, ít đòi hỏi về chế độ ăn và chế độ chăm sóc cầu kỳ, nhưng lại cho tốc độ sinh trưởng tương đối nhanh, thịt rất thơm ngon và một số loài còn có thể nuôi làm vật cảnh. Trong việc khai thác và bảo vệ sự phong phú đa dạng các giống vật nuôi hiện nay, việc nghiên cứu, bảo tồn các giống gà hoang dã bản địa đang là vấn đề thiết thực và cấp bách. Tình hình bảo tồn quỹ gen vật nuôi trong nước hạn chế ở việc phát hiện các giống quý hiếm, việc bảo tồn và phát triển giống mới chỉ được quan tâm ở các cơ sở giống quốc gia. Các nghiên cứu bảo tồn giống do địa phương (cấp tỉnh) thực hiện không nhiều.

Ông Hoàng Xuân Thủy: Về tình trạng bảo tồn giống gà Lôi trắng, Sách Đỏ Việt Nam đánh giá ở mức LR (ít nguy cấp), trong Công ước buôn bán động vật hoang dã quốc tế chúng được xếp vào dạng không bị cấm và trong Danh lục Đỏ IUCN đánh giá ở mức LC (ít lo ngại).

Về lịch sử nghiên cứu gà Lôi trắng, hiện nay tuy đã có một số tài liệu đề cập nhưng còn lẻ lẻ, tập trung chủ yếu là điều tra về phân bố và nhận dạng trong điều kiện tự nhiên, trong đó phải kể đến là công trình “Góp phần nghiên cứu nhóm chim trĩ và đặc điểm sinh học, sinh thái của gà Rừng tai trắng, Trĩ bạc, Công và biện pháp bảo vệ chúng” của tác giả Trương Văn Lã – Viện sinh thái tài nguyên sinh vật (1995).

Trong những năm gần đây, việc chăm sóc, nuôi dưỡng nguồn gen gà Lôi trắng được Vườn quốc gia Cúc Phương rất quan tâm và giao cho Trung tâm cứu hộ, bảo tồn và phát triển sinh vật thực hiện bắt dầu từ năm 2007. Với nguồn kinh phí có hạn, hàng năm ngân sách cấp chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu thực tế về thức ăn, số còn lại Trung Tâm phải tự cân đối trong các hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Tuy nhiên với sự cố gắng, Trung tâm đã khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Do vậy hiện nay, số lượng đàn giống gà Lôi trắng sinh trưởng, phát triển tốt và đã nhân lên được trên dưới 50 cá thể các loại. Hàng năm cung cấp ra thị trường một số lượng đáng kể con giống, để phục vụ cho các chương trình trao đổi về giống để nghiên cứu và bảo tồn đối với một số đơn vị như: Viện chăn nuôi, Công viên Thủ Lệ, Thảo cầm viên Sài gòn và các cơ sở bảo tồn khác trên phạm vi cả nước.

Nói chung, gà Lôi trắng là một loài vật nuôi mới có ngoại hình đẹp, chất lượng thịt thơm ngon, dễ nuôi, phù hợp với phương thức chăn nuôi nhốt khép kín, do vậy hiện nay giống gà này luôn được người chăn nuôi quan tâm và phát triển. Đứng trước thực trạng đó, Sở Khoa Học và Công Nghệ Ninh Bình đã đưa giống gà Lôi trắng vào Đề án khung về “Nhiệm vụ bảo tồn và phát triển nguồn gen vật nuôi tại Ninh Bình” thực hiện trong giai đoạn 2015 – 2020 và đã được Bộ Khoa Học và Công Nghệ phê duyệt.

PV: Xin được chúc mừng sự thành công của ông nói riêng và Trung tâm nói chung. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng như cộng đồng đều quan tâm đến lộ trình thực hiện đề tài, cũng như tính ứng dụng, sự chuyển giao của loài động vật quý hiếm này sẽ ra sao, xin ông bật mí, chia sẻ?

Ông Hoàng Xuân Thủy: Dự án được triển khai trong 2 năm 2015-2017. Hiện nay, giống gà này đang được chăn nuôi tập trung chủ yếu tại Trung tâm cứu hộ, bảo tồn và phát triển sinh vật – Vườn quốc gia Cúc Phương với quy mô tương đối nhỏ, trên dưới 50 cá thể, tuy nhiên để giống gà Lôi trắng có một vị trí đứng vững trên thị trường cần phải có cơ chế liên kết giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp và người chăn nuôi, trong đó các Trung tâm bảo tồn giống quốc gia chiếm một vị trí then chốt. Với những giá trị kinh tế của loài gà Lôi trắng mang lại kết hợp với sự vào cuộc của các cơ quan đơn vị quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và người dân, chắc chắn các sản phẩm của gà Lôi trắng sẽ có được một vị trí vững chắc trên thị trượng hiện nay.

Từ đàn gà Lôi trắng giống gốc đã được chọn lọc ở địa phương, sẽ cung cấp con giống cho các thành phần kinh tế khác nhau kết hợp với phổ biến các hưỡng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc và phòng trị bệnh thông qua các hình thức: Tập huấn kỹ thuật; Nuôi thử nghiệm; Xây dựng mô hình ở các vùng sinh thái; Tổng kết hội thảo, biên tập tài liệu, đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất đại trà; Các nội dung nghiên cứu của đề tài được tiến hành chủ yếu tại Trung tâm cứu hộ, bảo tồn và phát triển sinh vật, kết quả nghiên cứu được chuyển giao ngay cho cơ sở thông qua quá trình tập huấn kỹ thuật.

Gà Lôi Đặc Điểm Sinh Cảnh Và Gà Lôi

Share

Pin

Tweet

Send

Share

Send

Mô tả và tính năng của gà lôi

Gà lôi – Đây là một con chim đứng đầu gia đình gà lôi, lần lượt thuộc về thứ tự gà.

Gà lôi có bộ lông bắt mắt kỳ dị, đó là đặc điểm chính của loài chim. Con đực và con cái có ngoại hình khác nhau, như trong nhiều gia đình chim khác, con đực đẹp và sáng hơn nhiều.

Sự lưỡng hình giới tính rất phát triển ở những con chim này. Con đực đẹp hơn, sáng hơn và lớn hơn, nhưng nó phụ thuộc vào phân loài gà lôi, số lượng hơn 30. Sự khác biệt chính giữa các phân loài cũng là màu sắc của bộ lông.

Ví dụ, một con gà lôi bình thường bao gồm một số lượng lớn các phân loài: ví dụ, một con gà lôi Georgia – nó được đặc trưng bởi sự hiện diện của một đốm nâu trên bụng, có viền sáng của lông sáng bóng.

Một đại diện khác là gà lôi Khiva, màu sắc của nó bị chi phối bởi màu đỏ với tông màu đồng.

Gà lôi đực bình thường có bộ lông đẹp sáng

Nhưng gà lôi Nhật Bản khác với phần còn lại trong màu xanh lá cây, được thể hiện trong các sắc thái khác nhau.

Bộ lông của gà lôi Nhật Bản bị chi phối bởi các sắc thái màu xanh lá cây

Hình ảnh chim trĩ tiết lộ vẻ đẹp độc đáo của những con chim này. Tuy nhiên, đây chủ yếu là đặc điểm của con đực.

Con cái được vẽ khiêm tốn hơn nhiều, màu chủ đạo của bộ lông là màu xám với các sắc thái nâu và hồng. Các hoa văn trên cơ thể được thể hiện bằng các chấm nhỏ.

Ở bên ngoài, một con gà lôi dễ dàng phân biệt với một con chim khác bằng cái đuôi dài của nó, đạt khoảng 40 cm ở con cái và 60 cm ở con đực.

Trọng lượng của gà lôi phụ thuộc vào phân loài, cũng như kích thước của cơ thể. Ví dụ, một con gà lôi bình thường có trọng lượng khoảng 2 kg và chiều dài cơ thể hơi nhỏ hơn một mét.

Ngoại hình đẹp và thịt rất ngon và khỏe mạnh của loài chim này là nguyên nhân của khối lượng săn chim trĩ. Gà lôi Slayer hầu hết các con chó săn thường hành động, được huấn luyện đặc biệt và dễ dàng tìm thấy vị trí của con chim.

Nhiệm vụ của con chó là lái chim trĩ lên cây, vì thời điểm cất cánh là thời điểm dễ bị tổn thương nhất, chính là lúc này thợ săn bắn một phát súng. Và sau đó, nhiệm vụ của chú chó là mang chiếc cúp bị bắt cho chủ nhân của nó.

Thịt gà lôi rất được đánh giá cao về hương vị và hàm lượng calo, là 254 kcal trên 100 gram sản phẩm, ngoài ra, nó chứa một lượng lớn vitamin cần thiết cho hoạt động bình thường của cơ thể con người.

Có rất nhiều công thức nấu ăn gà lôi, và mỗi người trong số họ là một kiệt tác ẩm thực. Một bà nội trợ tốt có lẽ biếtcách nấu gà lôiđể nhấn mạnh hương vị tinh chế của nó và bảo tồn tất cả các phẩm chất hữu ích.

Việc sử dụng thịt gà lôi trong chế độ ăn uống làm tăng khả năng miễn dịch của con người, phục hồi các lực lượng đã sử dụng và có tác dụng phục hồi toàn bộ cơ thể.

Gà lôi có bộ lông màu nâu đen

Nhu cầu thịt ban đầu như vậy gà lôi sinh sản trong các trang trại săn bắn, trong đó họ bổ sung số lượng chim cho mùa săn bắn, theo quy luật, rơi vào mùa thu. Vào đầu thế kỷ 19, chim trĩ bắt đầu được nhân giống ở các tỉnh tư nhân làm đối tượng để săn bắn và trang trí sân của chúng.

Về cơ bản, để trang trí sân, họ đã tạo ra một cái nhìn kỳ lạ như gà lôi vàng. Lông của loài chim này rất sáng: vàng, đỏ, đen. Con chim trông rất đẹp và ngoạn mục.

Trong ảnh là một con gà lôi vàng

Trong thế kỷ 20, gà lôi sinh sản tại nhà đã được thực hiện ở khắp mọi nơi. Gia cầm mang lại lợi nhuận đủ tốt cho chủ của chúng, do đó gà lôi nuôi tại nhà đi đến một cấp độ kỹ thuật mới và chiếm một vị trí quan trọng trong ngành. Do đó, với sự phát triển của chăn nuôi gà lôi mua chim trĩ Nó đã trở nên dễ dàng hơn và có nhiều lợi nhuận hơn.

Tính cách và lối sống của gà lôi

Pheasant có danh hiệu người chạy nhanh nhất và nhanh nhẹn nhất trong số tất cả các đại diện của gà. Khi chạy, gà lôi có tư thế đặc biệt, nó nhấc cái đuôi lên, đồng thời mở rộng đầu và cổ về phía trước. Gà lôi dành gần như toàn bộ cuộc sống của mình trên trái đất, chỉ trong những trường hợp cực đoan, gặp nguy hiểm, anh ta mới cất cánh. Tuy nhiên, bay không phải là lợi thế chính của chim.

Pheasants bởi bản chất của chúng là những con chim rất nhút nhát và cố gắng ở trong nơi trú ẩn an toàn. Một nơi như vậy cho chim là bụi cây hoặc cỏ cao rậm rạp.

Thông thường chim sống một mình, nhưng đôi khi chúng được nhóm thành một nhóm nhỏ. Sẽ dễ dàng hơn để nhìn thấy chim vào buổi sáng hoặc buổi tối, khi chúng ra khỏi nơi trú ẩn để ăn. Thời gian còn lại, chim trĩ là bí mật và trốn tránh những con mắt tò mò.

Gà lôi thích ngồi trên cây, nhờ màu motley, chúng cảm thấy an toàn giữa những tán lá và cành cây. Trước khi chúng rơi xuống đất, chim trĩ lên kế hoạch rất lâu trên không trung. Gà lôi cất cánh theo kiểu “ngọn nến thẳng đứng”, sau đó chuyến bay đi theo mặt phẳng ngang.

Bạn chỉ có thể nghe thấy giọng nói của chim trĩ khi nó bay. Giữa tiếng vỗ cánh ồn ào của một con chim trĩ, người ta có thể bắt được một tiếng kêu giật mạnh, mạnh. Âm thanh này giống như tiếng gà gáy, nhưng nó không quá dài và mạnh hơn.

Khu vực phân phối của loài chim này là rất lớn. Gà lôi sống từ bán đảo Iberia đến quần đảo Nhật Bản. Loài chim này có thể được tìm thấy ở vùng Kavkaz, Turkmenistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Viễn Đông. Ngoài ra, chim trĩ được tìm thấy ở Bắc Mỹ, cũng như ở nhiều nước châu Âu.

Sinh sản và tuổi thọ của gà lôi

Trong mùa sinh sản, chim trĩ trong bơi tự nhiên. Gà lôi là loài chim một vợ một chồng, mặc dù có những trường hợp biểu hiện và đa thê. Việc lựa chọn một cặp chim là rất cẩn thận, vì chúng làm điều đó một lần và mãi mãi.

Đối với chim yến chọn một khu vực an toàn được ngụy trang. Về cơ bản, đây là những cánh đồng được trồng dày đặc bằng ngô hoặc các loại cây trồng cao khác, bụi cây mọc um tùm hoặc bụi cây rừng.

Tổ được dệt trực tiếp trên mặt đất, nhưng đồng thời họ cố gắng che nó hết mức có thể và giấu nó để không ai tìm thấy con cái và tấn công tổ.

Vào tháng 4, con cái đẻ từ 8 đến 12 quả trứng, trứng có màu ô liu khác thường, có thể có màu nâu hoặc xanh lá cây. Việc ấp nở con cái được thực hiện độc quyền bởi con cái. Để làm điều này, cô dành rất nhiều sức lực và năng lượng, vì cô rời tổ rất hiếm khi chỉ để ăn.

Tổ chim trĩ cẩn thận đeo mặt nạ trong bụi cây dày đặc

Chăm sóc suy nhược như vậy cho con cái có thể làm mất một con chim nặng một nửa trọng lượng của nó. Gà con được sinh ra khá mạnh mẽ. Sau ngày đầu tiên, chúng bắt đầu tự ăn, và sau ba ngày chúng có thể chứng minh khả năng bay.

Tuy nhiên, những con gà con gần gũi với mẹ của chúng cho đến năm tháng tuổi, mặc dù thực tế là vào thời điểm đó, chúng trông giống hệt một con chim trưởng thành.

Ở nhà, chim trĩ có thể kết hợp các nỗ lực để ấp trứng con cái, một số con cái có thể chăm sóc toàn bộ con cái. Trong một đàn như vậy, có thể có khoảng 50 con gà lôi. Con đực, như một quy luật, không tham gia chăm sóc con cái, mọi trách nhiệm thuộc về con cái.

Trong ảnh là gà con

Từ khoảng 220 ngày của cuộc đời, chim non bắt đầu dậy thì và chúng trở thành những con trưởng thành độc lập và từ 250 ngày, nhiều con trong số chúng bắt đầu sinh sản.

Thức ăn của gà lôi

Trong môi trường tự nhiên, trong điều kiện tự nhiên, chế độ ăn của gà lôi chủ yếu bao gồm các loại thực phẩm thực vật. Để thỏa mãn cơn đói, chim trĩ sử dụng hạt giống cây, quả mọng, thân rễ, chồi xanh non và lá. Thức ăn động vật cũng rất quan trọng đối với chim, chúng ăn giun, ấu trùng, côn trùng, nhện.

Một đặc điểm đặc trưng của những con chim này là những con gà con từ khi sinh ra chỉ ăn thức ăn động vật và chỉ sau một thời gian chúng chuyển sang thức ăn thực vật.

Gà lôi lấy thức ăn trên mặt đất, cào lá, mặt đất và cỏ bằng bàn chân đủ mạnh hoặc chúng mổ thức ăn từ thực vật ở độ cao nhỏ so với mặt đất.

Share

Pin

Tweet

Send

Share

Send

Chu Kỳ Sinh Sản Và Mùa Dụ Chim Yến Non Vào Nhà Yến

Vậy bảng phong thần về tập tính và mùa dẫn dụ chim yến này dùng để làm gì?

Đây là bảng 12 tháng trong năm và chu kỷ sinh trưởng, phát triển, ghép đôi, làm tổ, ấp trứng, chăm sóc chim non của loài yến là một nguồn thông tin tham khảo khá bổ ích cho các chủ nhà yến. Từ bảng này các anh chị có thể xác định được những tháng nào là mùa dẫn dụ chim yến non, lượng chim non ra ràng nhiều để có những phương pháp đón chúng, mùa nào chim yến cần làm tổ ghép đôi, mùa nào chúng ta có thể khai thác tổ để có hiệu quả vừa tăng bầy đàn chim yến vừa khai thác tổ yến.

Ví du về mùa dẫn dụ chim yến non:

Mùa chim non ra ràng nhiều nhất là vào các tháng 3, 4, 8, 11 vì vậy khi xây dựng nhà yến nên khai trương trước thời gian này khoảng nữa tháng đến 1 tháng để đón đầu lượng chim non sắp ra ràng. Không tốn công đợi chờ quá lâu mà không có chim vào ở. Một số anh chị mới đi vào hoạt động nhà yến có inbox hỏi Lộc Bụt tại sao nhà yến hoạt động gần 2,3 tháng mà chưa có chim thì một nguyên nhân có thể là do nhà yến của anh chị khai trương vào các tháng không có chim non nên rất khó để dẫn dụ chim yến.

Ví dụ về mùa khai thác tổ yến hiệu quả:

Bật kỳ chủ nhà yến nào đều mong muốn khai thác được nhiều tổ yến nhất để gia tăng thu nhập cho gia đình, từ đó làm giàu cho bản thân và gia đình. Tuy nhiên không phải vì kinh tế mà chúng ta khai thác tổ yến một cách vô tôi vạ không có kỹ thuật làm ảnh hưởng đến nguồn thu ở những lần tiếp theo. Việc thu hoạch tổ yến chỉ thực hiện khi chim yến non đã ra ràng và rời khỏi tổ, những tổ yến đang có trứng hoặc chim non thì tuyệt đối không khai thác. Các tháng mà anh chị nên quan tâm để khai thác tổ là tháng 3, 4, 8, 9, 11 và tháng 12.