Cập nhật thông tin chi tiết về Vụ “Người Đương Thời” Nguyễn Đình Chiến Bị Kết Án Chung Thân: Hơn Chục Năm Liên Tục Kêu Oan, Tiếng Kêu Chưa Thấu “Trời Xanh” (Kì 2) mới nhất trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Kì 2: Những chứng cứ chứng minh ông Nguyễn Đình Chiến không có hành vi gian dối
Cơ quan tố tụng các cấp đều cho rằng, ông Nguyễn Đình Chiến sử dụng các giấy tờ: Giấy bảo lãnh của Ngân hàng Barclays LonDon đề ngày 10/10/2007, có số tiền 500 triệu Euro, người thụ hưởng là ông Nguyễn Đình Chiến (BL500); Giấy hứa thanh toán nợ quốc tế ngày 26/6/2007 của Tập đoàn Basownn Hồng Kông, do ông Bạch Minh Sơn, Chủ tịch tập đoàn kí hứa chuyển trả cho ông Chiến 2 triệu USD (Giấy hứa TT); Thư bảo lãnh của Ngân hàng EuroBank, có tổng số tiền 100 triệu Euro, người thụ hưởng là ông Bounthoua Sayavong (BL100); Điện báo của Federal Reserve Bank of New York số tiền 6 tỉ Euro, người thụ hưởng Công ty TNHH XNK phát triển nông lâm nghiệp (Điện báo 6 tỉ); Hợp đồng ủy quyền của ông Aixinjueluo Yuhao, ủy quyền cho ông Chiến sử dụng viên ngọc trị giá 1,2 tỉ USD (GUQ viên ngọc). Các tài liệu, giấy tờ này bị cho là giả mạo, không có nguồn gốc xuất xứ, không có căn cứ pháp lí nhằm tạo niềm tin, kí các hợp đồng hợp tác đầu tư, để chiếm đoạt tiền của Công ty CP Đại Viễn Dương (Công ty ĐVD) và Đại học Nguyễn Trãi.
Tuy nhiên, các cơ quan tố tụng không làm rõ, các giấy tờ này ông Chiến có được khi đang thực hiện chương trình quay vòng tài chính, không do ông Chiến làm giả, mà do đối tác gửi, hoặc ông được ủy quyền. Ông Chiến khẳng định, ông không sử dụng các giấy tờ này nhằm lừa đảo các đối tác, cụ thể:
Thực tế BL500 được cung cấp bởi bên bán, kèm theo hợp đồng mua bán công cụ tài chính và phụ lục kèm theo. Trong quá trình điều tra, xét xử, ông Chiến đều khai mẫu BL500 này do ông Nguyễn Xuân Mão gửi cho ông Chiến, trong quá trình xúc tiến giao dịch với Tập đoàn Qiguang (HK) Internation Edifce theo Hợp đồng AMO-BG500M-03102007. Thế nhưng, cơ quan tố tụng chỉ xem xét độc lập, không tính đến toàn bộ quá trình giao dịch. Mặt khác, BL500 có ghi tên 2 người quản lí cao cấp là ông Michael Attee (Snr Manager) và Ian Puddeta (Snr Manager), nhưng không có chữ kí của 2 người này. Như Vậy, chỉ cần kiến thức sơ đẳng cũng hiểu, văn bản này không có giá trị. Một văn bản không giá trị, thì việc gì phải làm giả?
BL500 ghi “No mail or hard copy will follow” (nghĩa là không có thư điện tử và bản giấy kèm theo) và “text code” (nghĩa là mã hóa). Như vậy, đây chỉ là bản mẫu được mã hóa bằng Swift và chuyển giữa các ngân hàng, không có bản giấy chính thưc lưu hành bên ngoài. Thực chất, BL500 chỉ là bản mẫu bên bán cung cấp cho ông Chiến trong quá trình giao dịch, không có giá trị thực tế. Vậy, ông Nguyễn Tiến Luận, là TS giỏi tiếng Anh là Chủ tịch HĐQT một trường đại học; hay ông Phạm Trọng Thuần, Giám đốc một doanh nghiệp tầm cỡ, cũng phải hiểu văn bản này không có giá trị, nói gì đến giả hay không giả? Điều này chứng tỏ, ông Chiến không thể mang BL500 ra lòe bịp ông Luận, ông Thuần, để tạo niềm tin nhằm kí các hợp đồng hợp tác, để chiếm đoạt tiền của 2 đơn vị này.
Như vậy, BL500 không phải là giả (vì không có giá trị thực tế), ông Chiến không làm ra nó mà do ông Mão gửi cho ông trong quá trình giao dịch. Ông Chiến không thể mang BL500 ra để lừa ông Luận, ông Thuần, vì 2 ông này thừa hiểu nội dung của BL500 chỉ là trao đổi, ghi nhận quá trình thực hiện chương trình tài chính. Ông Chiến không bao giờ nói ông có tới 500 triệu Euro.
Ông Nguyễn Đình Chiến tại phiên tòa sơ thẩm tại TAND TP Hà Nội
Đối với BL100 và Điện báo 6 tỉ, cơ quan tố tụng cho rằng, ông Chiến dùng các giấy tờ này tạo niềm tin cho ông Phạm Trọng Thuần và đây là các giấy tờ giả. Trong khi đó, không chứng minh được ai làm giả các giấy tờ này? Thực tế, không thể có chứng cứ chứng minh các giấy tờ này là giả, bởi 2 văn bản này do ông Bounthua ủy quyền cho ông Chiến, nằm trong chương trình quay vòng tài chính của ông. Ông Chiến tin tưởng các giấy tờ này và tin rằng sẽ thành công, nên đã chi tiền cho ông Bounthua 300.000 USD, theo Hợp đồng hợp tác ngày 18/11/2007. Do đó, năm 2018, ông Bounthua ủy quyền cho ông Chiến sử dụng 2 công cụ tài chính này để quay vòng. Ông Chiến không thể biết, 2 giấy tờ này là giả hay không. Thực tế, không có bằng chứng nào chứng minh ông Chiến nói rằng mình có số tiền đó, bởi trên 2 công cụ tài chính này nói rõ, người thụ hưởng là ông Bounthua, chứ không phải ông Chiến.
Như vậy, cơ quan tố tụng quy kết ông Chiến dùng các công cụ tài chính này để lừa đảo, là không có căn cứ, rất không logic về thực tế, cũng như xét ở góc độ khoa học hình sự. Các giấy tờ khác cũng không có căn cứ chứng minh ông Chiến làm giả mạo, cụ thể:
Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, không thấy căn cứ nào chứng minh ông Chiến làm giả giấy tờ, không có tài liệu nào cho thấy ông Chiến nói với các đối tác rằng, ông có tiền từ các giấy tờ đó. Ngược lại tài liệu cho thấy, ông Chiến có xúc tiến các chương trình tài chính như: Chuyển tiền cho ông Nguyễn Xuân Mão và ông Bạch Minh Sơn; Kí kết hợp đồng ủy quyền với các ông Bounthoua, Yuhao và chuyển tiền cho họ. So sánh các tài liệu cho thấy, số tiền ông Chiến đầu tư lớn hơn rất nhiều so với số tiền ông nhận được từ các đối tác theo hợp đồng. Do đó, ông Chiến (một người làm kinh tế) không dại gì bỏ ra rất nhiều tiền, để đi lừa đảo 20 tỉ đồng.
Biên bản xác nhận công nợ giữa ông Nguyễn Đình Chiến và ông Bạch Minh Sơn, người làm chứng là ông Trần Duy Dũng
Mặt khác, ông Chiến đã sử dụng các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đặt cọc cho Đại học Nguyễn Trãi, để bảo đảm nghĩa vụ hoàn lại tiền. Về các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, là giao dịch thực tế giữa Công ty Bắc Hà với Công ty Bằng An. Các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy, Công ty Bắc Hà rất nhiều lần chi tiền trả cho Công ty Bằng An, chứng từ chi tiền cũng được cung cấp đầy đủ cho cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng không được xem xét. Thậm chí chứng từ chuyển khoản 5 tỉ đồng qua ngân hàng cũng không được xem xét, mà chỉ dựa vào lời khai của bà Nguyễn Thị Bằng An rằng, ông Chiến không chuyển cho bà An đồng nào. Ông Chiến cho rằng, Tòa chỉ dựa vào lời khai vô căn cứ của kẻ “đục nước béo cò” để kết tội ông, khiến Công ty Bắc Hà thiệt hại nặng nề về kinh tế, bằng việc kiến nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư chuyển lại tên cổ đông Công ty Bằng An như ban đầu. Từ đó, các cổ đông mới của Công ty Bằng An bị loại, thay vào đó là các con của bà Nguyễn Thị Bằng An, đã chuyển nhượng dự án cho các đối tác khác, trong khi trước đó dự án có quyền sử dụng đất đã được Công ty Bằng An chuyển nhượng cho Công ty Bắc Hà.
Tóm lại, tài sản mà ông Chiến đặt cọc cho Đại học Nguyễn Trãi, là do Công ty Bắc Hà trả bằng tiền để có được. Ông Chiến có cơ sở vững chắc để tin tưởng rằng, đó là tài sản do Công ty Bắc Hà sở hữu, nên mới mang đi đặt cọc. Điều khó tin, một giao dịch có hợp đồng bằng văn bản, có chứng từ chi tiền mặt và chứng từ chuyển tiền qua ngân hàng, lại không được các cấp Tòa án chấp nhận. Ngược lại, Tòa chỉ chấp nhận những lời khai không phù hợp với bất cứ tài liệu nào có trong hồ sơ vụ án, để tuyên trách nhiệm hình sự đối với ông Chiến, trách nhiệm dân sự đối với Công ty Bắc Hà. Ông Chiến cho rằng, đó là hành vi vi phạm nghiêm trọng tố tụng của Tòa án, là hành vi ban hành bản án trái với các tình tiết khách quan.
(Còn nữa)
Vụ “Người Đương Thời” Nguyễn Đình Chiến Bị Kết Án Chung Thân: Hơn Chục Năm Liên Tục Kêu Oan, Tiếng Kêu Chưa Thấu “Trời Xanh” (Kì 2)
Cơ quan tố tụng các cấp đều cho rằng, ông Nguyễn Đình Chiến sử dụng các giấy tờ: Giấy bảo lãnh của Ngân hàng Barclays LonDon đề ngày 10/10/2007, có số tiền 500 triệu Euro, người thụ hưởng là ông Nguyễn Đình Chiến (BL500); Giấy hứa thanh toán nợ quốc tế ngày 26/6/2007 của Tập đoàn Basownn Hồng Kông, do ông Bạch Minh Sơn, Chủ tịch tập đoàn kí hứa chuyển trả cho ông Chiến 2 triệu USD (Giấy hứa TT); Thư bảo lãnh của Ngân hàng EuroBank, có tổng số tiền 100 triệu Euro, người thụ hưởng là ông Bounthoua Sayavong (BL100); Điện báo của Federal Reserve Bank of New York số tiền 6 tỉ Euro, người thụ hưởng Công ty TNHH XNK phát triển nông lâm nghiệp (Điện báo 6 tỉ); Hợp đồng ủy quyền của ông Aixinjueluo Yuhao, ủy quyền cho ông Chiến sử dụng viên ngọc trị giá 1,2 tỉ USD (GUQ viên ngọc). Các tài liệu, giấy tờ này bị cho là giả mạo, không có nguồn gốc xuất xứ, không có căn cứ pháp lí nhằm tạo niềm tin, kí các hợp đồng hợp tác đầu tư, để chiếm đoạt tiền của Công ty CP Đại Viễn Dương (Công ty ĐVD) và Đại học Nguyễn Trãi.
Tuy nhiên, các cơ quan tố tụng không làm rõ, các giấy tờ này ông Chiến có được khi đang thực hiện chương trình quay vòng tài chính, không do ông Chiến làm giả, mà do đối tác gửi, hoặc ông được ủy quyền. Ông Chiến khẳng định, ông không sử dụng các giấy tờ này nhằm lừa đảo các đối tác, cụ thể:
Thực tế BL500 được cung cấp bởi bên bán, kèm theo hợp đồng mua bán công cụ tài chính và phụ lục kèm theo. Trong quá trình điều tra, xét xử, ông Chiến đều khai mẫu BL500 này do ông Nguyễn Xuân Mão gửi cho ông Chiến, trong quá trình xúc tiến giao dịch với Tập đoàn Qiguang (HK) Internation Edifce theo Hợp đồng AMO-BG500M-03102007. Thế nhưng, cơ quan tố tụng chỉ xem xét độc lập, không tính đến toàn bộ quá trình giao dịch. Mặt khác, BL500 có ghi tên 2 người quản lí cao cấp là ông Michael Attee (Snr Manager) và Ian Puddeta (Snr Manager), nhưng không có chữ kí của 2 người này. Như Vậy, chỉ cần kiến thức sơ đẳng cũng hiểu, văn bản này không có giá trị. Một văn bản không giá trị, thì việc gì phải làm giả?
BL500 ghi “No mail or hard copy will follow” (nghĩa là không có thư điện tử và bản giấy kèm theo) và “text code” (nghĩa là mã hóa). Như vậy, đây chỉ là bản mẫu được mã hóa bằng Swift và chuyển giữa các ngân hàng, không có bản giấy chính thưc lưu hành bên ngoài. Thực chất, BL500 chỉ là bản mẫu bên bán cung cấp cho ông Chiến trong quá trình giao dịch, không có giá trị thực tế. Vậy, ông Nguyễn Tiến Luận, là TS giỏi tiếng Anh là Chủ tịch HĐQT một trường đại học; hay ông Phạm Trọng Thuần, Giám đốc một doanh nghiệp tầm cỡ, cũng phải hiểu văn bản này không có giá trị, nói gì đến giả hay không giả? Điều này chứng tỏ, ông Chiến không thể mang BL500 ra lòe bịp ông Luận, ông Thuần, để tạo niềm tin nhằm kí các hợp đồng hợp tác, để chiếm đoạt tiền của 2 đơn vị này.
Như vậy, BL500 không phải là giả (vì không có giá trị thực tế), ông Chiến không làm ra nó mà do ông Mão gửi cho ông trong quá trình giao dịch. Ông Chiến không thể mang BL500 ra để lừa ông Luận, ông Thuần, vì 2 ông này thừa hiểu nội dung của BL500 chỉ là trao đổi, ghi nhận quá trình thực hiện chương trình tài chính. Ông Chiến không bao giờ nói ông có tới 500 triệu Euro.
Ông Nguyễn Đình Chiến tại phiên tòa sơ thẩm tại TAND TP Hà Nội
Đối với BL100 và Điện báo 6 tỉ, cơ quan tố tụng cho rằng, ông Chiến dùng các giấy tờ này tạo niềm tin cho ông Phạm Trọng Thuần và đây là các giấy tờ giả. Trong khi đó, không chứng minh được ai làm giả các giấy tờ này? Thực tế, không thể có chứng cứ chứng minh các giấy tờ này là giả, bởi 2 văn bản này do ông Bounthua ủy quyền cho ông Chiến, nằm trong chương trình quay vòng tài chính của ông. Ông Chiến tin tưởng các giấy tờ này và tin rằng sẽ thành công, nên đã chi tiền cho ông Bounthua 300.000 USD, theo Hợp đồng hợp tác ngày 18/11/2007. Do đó, năm 2018, ông Bounthua ủy quyền cho ông Chiến sử dụng 2 công cụ tài chính này để quay vòng. Ông Chiến không thể biết, 2 giấy tờ này là giả hay không. Thực tế, không có bằng chứng nào chứng minh ông Chiến nói rằng mình có số tiền đó, bởi trên 2 công cụ tài chính này nói rõ, người thụ hưởng là ông Bounthua, chứ không phải ông Chiến.
Như vậy, cơ quan tố tụng quy kết ông Chiến dùng các công cụ tài chính này để lừa đảo, là không có căn cứ, rất không logic về thực tế, cũng như xét ở góc độ khoa học hình sự. Các giấy tờ khác cũng không có căn cứ chứng minh ông Chiến làm giả mạo, cụ thể:
Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, không thấy căn cứ nào chứng minh ông Chiến làm giả giấy tờ, không có tài liệu nào cho thấy ông Chiến nói với các đối tác rằng, ông có tiền từ các giấy tờ đó. Ngược lại tài liệu cho thấy, ông Chiến có xúc tiến các chương trình tài chính như: Chuyển tiền cho ông Nguyễn Xuân Mão và ông Bạch Minh Sơn; Kí kết hợp đồng ủy quyền với các ông Bounthoua, Yuhao và chuyển tiền cho họ. So sánh các tài liệu cho thấy, số tiền ông Chiến đầu tư lớn hơn rất nhiều so với số tiền ông nhận được từ các đối tác theo hợp đồng. Do đó, ông Chiến (một người làm kinh tế) không dại gì bỏ ra rất nhiều tiền, để đi lừa đảo 20 tỉ đồng.
Biên bản xác nhận công nợ giữa ông Nguyễn Đình Chiến và ông Bạch Minh Sơn, người làm chứng là ông Trần Duy Dũng
Mặt khác, ông Chiến đã sử dụng các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đặt cọc cho Đại học Nguyễn Trãi, để bảo đảm nghĩa vụ hoàn lại tiền. Về các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, là giao dịch thực tế giữa Công ty Bắc Hà với Công ty Bằng An. Các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy, Công ty Bắc Hà rất nhiều lần chi tiền trả cho Công ty Bằng An, chứng từ chi tiền cũng được cung cấp đầy đủ cho cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng không được xem xét. Thậm chí chứng từ chuyển khoản 5 tỉ đồng qua ngân hàng cũng không được xem xét, mà chỉ dựa vào lời khai của bà Nguyễn Thị Bằng An rằng, ông Chiến không chuyển cho bà An đồng nào. Ông Chiến cho rằng, Tòa chỉ dựa vào lời khai vô căn cứ của kẻ “đục nước béo cò” để kết tội ông, khiến Công ty Bắc Hà thiệt hại nặng nề về kinh tế, bằng việc kiến nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư chuyển lại tên cổ đông Công ty Bằng An như ban đầu. Từ đó, các cổ đông mới của Công ty Bằng An bị loại, thay vào đó là các con của bà Nguyễn Thị Bằng An, đã chuyển nhượng dự án cho các đối tác khác, trong khi trước đó dự án có quyền sử dụng đất đã được Công ty Bằng An chuyển nhượng cho Công ty Bắc Hà.
Tóm lại, tài sản mà ông Chiến đặt cọc cho Đại học Nguyễn Trãi, là do Công ty Bắc Hà trả bằng tiền để có được. Ông Chiến có cơ sở vững chắc để tin tưởng rằng, đó là tài sản do Công ty Bắc Hà sở hữu, nên mới mang đi đặt cọc. Điều khó tin, một giao dịch có hợp đồng bằng văn bản, có chứng từ chi tiền mặt và chứng từ chuyển tiền qua ngân hàng, lại không được các cấp Tòa án chấp nhận. Ngược lại, Tòa chỉ chấp nhận những lời khai không phù hợp với bất cứ tài liệu nào có trong hồ sơ vụ án, để tuyên trách nhiệm hình sự đối với ông Chiến, trách nhiệm dân sự đối với Công ty Bắc Hà. Ông Chiến cho rằng, đó là hành vi vi phạm nghiêm trọng tố tụng của Tòa án, là hành vi ban hành bản án trái với các tình tiết khách quan.
(Còn nữa)
Tiếng Đa Đa Mồi Kêu Và Chia Sẽ Cách Bẫy Đa Đa Hiệu Quả Nhất
Link Mp3: Tiếng chim đa đa mồi kêu
1. Chim đa đa ăn gì ?
Cũng giống như tất cả các loài chim khác thì đa đa cũng ăn những loại thức ăn như là dế, cào cào, giun và một số loại sâu bọ, chúng ăn được cả thực vật như là hạt ngô, đậu xanh, hạt vừng, hạt thóc, và một số loại hạt khác, nếu muốn cho chim nhanh gái và sung sức thì kết hợp với cung cấp các loại thức ăn chứa nhiều đạm như là thịt heo nạt, cá, tép các loại thủy sản nhỏ…
Thì cũng giống như con gà vậy thôi vì chim này cũng thuộc họ gà và có một số địa phương gọi chúng là gà gô cho nên tập tính của chúng cũng gần gần giống với con gà nhà của chúng ta vậy.
2. Chia sẽ cách bẫy chim đa đa hiệu quả
Loại chim này thường sinh sống trên các ngọn đồi cao và các vùng núi trung du, để bẫy được chúng thì bạn cần phải trèo đèo lội suối cũng hơi bị mệt vì theo tập tính của nó là một đôi chim trống mái là thống lĩnh cả một địa bàn rộng lớn, có thể là cả một ngòn đồi chỉ có duy nhất một cập chim trưởng thành.
Vì chúng rất háo đá và có tính bảo vệ lãnh thổ của mình rất cao, hể có tiếng chim đa đa khác vang lên trong khu vực nó thống trị thì chim chủ nhà sẳng sàng bay nhanh đến chổ vừa cất lên tiếng gái để chiến đấu xua đổi những kẻ đã xâm nhập vào địa bàn của chúng.
Nếu kẻ xâm lượt mạnh hơn chim chủ nhà thì buộc chủ nhà phải rời khỏi lãnh thổ của mình đang cay trị để nhường lại cho kẻ mạnh hơn sở hữu, nhưng cũng có con rất hung dữ chúng thà chiến đấu đến chết cũng không chiệu thua và nhườn lại lãnh thổ của chúng.
Dựa vào đặc tính này của chúng mà những thợ săn chuyên đi bẫy đa đa sẽ nuôi một con chim đa đa mồi nhử những con chim rừng về và xung quanh đã bố trí sẳng những chiếc bẫy tử thần, chỉ cần chim rừng vào thì không có mạng để trở ra.
– bẫy đa đa bằng lụp Với cách này thì cũng giống như là cách bẫy chim quốc nhưng sử dụng loại lụp có kích cở nhỏ vừa bằng với con gà gô. Để sử dụng được cách này yêu cầu bạn cần phải có một chú chim đa đa mồi để bỏ vào lụp và đòi hỏi chim mồi của bạn phải siêng gái ( kêu ) chứ chim mồi lười hót quá thì cũng không ăn thua gì.
– bẫy đa đa bằng thòng Vì sao loại bẫy này được ra đời là do cách bẫy bằng lụp xồ xề, to đùng, cền càng khó trèo đèo lội suối và hơn nữa chim rừng ngày càn thông minh ngày càn nhúc nhát không dám vào lụp nên chiếc bẫy thòng lọng này được ra đời vì những đặc tính ưu việt của nó là.
Gọn gàn, nhẹ nhàng, thon gọn, hơn hết nó rất đơn giản dể ngụy trang vào các bụi cỏ, bụi rậm nên chim rừng về sẽ háo đá hơn vì chúng vốn không nhìn thấy bẫy. Còn một lợi thế khác nữa là nếu bẫy bằng lụp thì đòi hỏi bạn phải nuôi được một con chim đa đa mồi, còn nếu bẫy bằng thòng thì không cần chim mồi mà chỉ cần có máy phát nhạc hoặc điện thoại di động có ghi âm tiếng của chúng là có thể bẫy được nó một cách dể dàng hơn bao giờ hết.
3. Chia sẽ file tiếng chim đa đa mồi kêu chuẩn
Như những thông tin mình vừa nêu ở trên thì file âm thanh chiếm một vị trí khá quang trọng trong cuộc đi săn gà gô này. Nếu file âm thanh rè, nhiều tạp âm, tiếng không giống với chim rừng thì chỉ có đuổi chim chạy bỏ mạng chứ nói gì mà dụ chúng về.
Chân Dung Chủ Tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung Vừa Bị Bắt
Ông Nguyễn Đức Chung sinh ngày 3/8/1967, quê quán tại xã Thăng Long, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Ông có trình độ cử nhân chuyên ngành điều tra tội phạm, cử nhân ngành quản trị kinh doanh, tiến sỹ luật học.
Năm 1990, ông Chung tốt nghiệp trường Đại học Cảnh sát nhân dân. Sau đó, ông công tác tại Công an Hà Nội và từng đảm nhiệm các chức vụ như đội phó, đội trưởng đội trọng án phòng Cảnh sát điều tra; phó trưởng phòng Cảnh sát điều tra; phó thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra; phó trưởng phòng, trưởng phòng Cảnh sát hình sự; phó giám đốc Công an thành phố; thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Thành phố Hà Nội.
Tháng 5/2011, ông Chung là đại biểu Quốc hội khóa XIII, đồng thời là ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
Tháng 9/2012, ông Chung được bổ nhiệm làm giám đốc, đồng thời là bí thư Đảng ủy Công an Thành phố Hà Nội, kế nhiệm Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh nghỉ hưu.
Ngày 02/11/2015, tại hội nghị lần thứ nhất, đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVI nhiệm kỳ 2015 – 2020, ông Nguyễn Đức Chung được bầu làm phó bí thư Thành ủy Hà Nội.
Tiếp đó, đến ngày 04/12/2015, HĐND Thành phố Hà Nội đã bầu ông Chung làm chủ tịch UBND thành phố Hà Nội thay ông Nguyễn Thế Thảo. Ông được thủ tướng chính phủ phê chuẩn chức vụ này vào ngày 10/12/2015.
Tháng 01/2016, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, ông Chung trúng cử ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
Ông Chung tái đắc cử chức vụ chủ tịch UBND thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2016-2021 tại kỳ họp thứ nhất của HĐND thành phố Hà Nội khóa 15 vào ngày 14/6/2016.
Ngày 28/8, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam ông Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch UBND Hà Nội, để điều tra về hành vi “Chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước”.
Đáng chú ý, trong quá trình công tác, ông Chung từng được phong các danh hiệu như Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (năm 2004), Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng nhất (năm 2007), Huân chương Chiến công hạng nhất. Vào tháng 7/2013, ông Chung được phong hàm Thiếu tướng khi đang là giám đốc Công an thành phố Hà Nội.
Bạn đang xem bài viết Vụ “Người Đương Thời” Nguyễn Đình Chiến Bị Kết Án Chung Thân: Hơn Chục Năm Liên Tục Kêu Oan, Tiếng Kêu Chưa Thấu “Trời Xanh” (Kì 2) trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!