Xem Nhiều 4/2023 #️ Xây Dựng Htx Sản Xuất Và Tiêu Thụ Gà Tre Tân Yên # Top 10 Trend | Ruybangxanh.org

Xem Nhiều 4/2023 # Xây Dựng Htx Sản Xuất Và Tiêu Thụ Gà Tre Tân Yên # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Xây Dựng Htx Sản Xuất Và Tiêu Thụ Gà Tre Tân Yên mới nhất trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

HTX Sản xuất và tiêu thụ gà tre Tân Yên thành lập gần 1 năm với 7 thành viên tham gia sản xuất, bên cạnh việc hỗ trợ nhau về kiến thức, kỹ thuật, con giống. Việc tham gia HTX đã giúp các hộ chăn nuôi nâng cao ý thức chăn nuôi theo hướng an toàn dịch bệnh.

Ảnh: Mô hình nuôi gà tre của gia đình ông Nguyễn Đình Tấn

Từ chỗ chăn nuôi tự phát, việc trở thành thành viên của HTX Sản xuất và tiêu thụ gà tre Tân Yên giúp ông Nguyễn Đình Tấn, thôn Hòa Làng, xã Phúc Hòa, huyện Tân Yên yên tâm chăn nuôi. Hiện tại, đàn gà 300 con của gia đình ông đang phát triển rất tốt. Trung bình mỗi năm ông nuôi từ 3 – 4 lứa, cung cấp chủ yếu cho các quán ăn, nhà hàng khu vực phía Bắc. Ông Tấn cho biết: Gà tre nuôi khá hoang dã, giống khỏe, ít bệnh, thương phẩm tốt, hiệu quả cao hơn. Giá trung bình mỗi con từ 80 – 90 nghìn/con nên chị rất hài lòng. Với tổng đàn như hiện tại, trừ chi phí, mỗi năm gia đình ông thu về trên 100 triệu đồng.

Còn với một số hộ chăn nuôi mới, chỉ khi là thành viên của HTX bài toán về kỹ thuật chăn nuôi, thị trường tiêu thụ mới được giải quyết. Chị Trần Thị Xiêm thôn Phúc Lễ, xã Phúc Hòa, huyện Tân Yên cũng đầu tư nuôi gần 2000 con gà tre thương phẩm. Chi Xiêm cũng cho biết: Tham gia vào thành viên của HTX rất thuận lợi, được cung cấp con giống, tư vấn về kỹ thuật chăn nuôi, liên hệ bao tiêu sản phẩm.

Việc nông dân chủ động liên kết thành lập HTX góp phần giảm thiểu tính rủi ro, tăng lợi nhuận và mở rộng quy mô chăn nuôi. Các thành viên có điều kiện lựa chọn con giống chất lượng, thức ăn chăn nuôi phù hợp, nâng cao chất lượng gà thương phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường. Đây cơ sở để HTX cùng các hộ thành viên phát triển bền vững.

Chị Trần Thị Mỵ – Giám đốc HTX sản xuất và tiêu thụ gà tre Tân Yên cho biết: Thời gian tới HTX sẽ mở rộng quy mô sản xuất và xây dựng mô hình chuỗi từ sản xuất đến chế biến sản phẩm, đẩy mạnh quảng bá sản phẩm, tiếp cận với các siêu thị, nhà hàng để hạn chế khâu trung gian, nâng cao hiệu quả kinh tế mức tối đa cho các hộ thành viên./.

Ngọc Hân

Xây Dựng Thương Hiệu Gà Thả Đồi Yên Thành

Tây Thành là xã miền núi có diện tích tự nhiên trên 2.000 ha, trong đó 2/3 là diện tích đồi núi. Để phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương, Tây Thành là một trong những xã được huyện Yên Thành chọn mô hình điểm trong việc thực hiện đề án “Phát triển chăn nuôi gà đồi gắn với xây dựng thương hiệu và tiêu thụ sản phẩm giai đoạn 2017-2022” .

Gà Tây Thành chủ yếu là giống gà cỏ, ri lai, gà mía lai có chất lượng thịt chắc, thơm ngon bởi được nuôi theo thả. Mỗi lứa có thời gian nuôi từ 4 – 6 tháng, gà đến thời điểm xuất bán đạt trọng lượng bình quân từ 2-2,5 kg/con, được thương lái trong và ngoài tỉnh tìm về thu mua sản phẩm.

Phong trào nuôi gà được phát triển đều ở tất cả 16 xóm, tạo vùng chăn nuôi khá tập trung. Nếu trước đây mỗi hộ dân chỉ nuôi từ 30 – 50 con mỗi lứa, nay số hộ chăn nuôi từ 400 – 500 con đã chiếm hơn 30%, có nhiều hộ đã đầu tư nuôi mỗi lứa trên 1.000 con.

Tại xã Quang Thành, hiện nay hầu như nhà nào cũng nuôi gà, trong đó có nhiều hộ dân chăn nuôi với quy mô lớn theo hướng hàng hóa.

Điển hình như hộ anh Chu Đình Minh, trên diện tích 4 ha đất đồi được trồng cây nguyên liệu giấy, dưới tán cây xanh gia đình anh đã đầu tư đóng cọc bê tông, vây lưới nuôi 1.500 ngàn con gà lai ri mỗi lứa.

Anh Minh cho biết, trước đây gia đình cũng nuôi gà theo phương pháp bán công nghiệp, nhưng do kinh phí đầu tư cao, sản phẩm khó tiêu thụ, gia đình đã chuyển sang nuôi gà thả đồi. Chăn nuôi theo hình thức này tuy thời gian nuôi kéo dài (từ 5 – 6 tháng/lứa) nhưng chủ động được con giống, nguồn thức ăn chủ yếu là phù du đồi rừng, các loại côn trùng và phụ phẩm nông nghiệp, do đó gà ít khi bị dịch bệnh, chi phí không đáng là bao. Theo giá hiện tại từ 80.000 -85.0000 đồng/kg, mỗi con gà cho lãi khoảng 15.000 đồng/kg.

Để từng bước phát triển và xây dựng thành công thương hiệu gà đồi Yên Thành, ông Nguyễn Văn Dương -Trưởng phòng NN&PTNT huyện khẳng định, đây là hướng đi mới trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của địa phương, nhằm phát huy tiềm năng sẵn có về nguồn lực lao động, diện tích đất đai.

Đặc biệt để sản phẩm gà đồi chiếm lĩnh được thị trường, cùng với triển khai các hoạt động trong chuỗi liên kết sản xuất, huyện đang kêu gọi, thu hút các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh vào hoạt động trên địa bàn, cùng người nông dân phát triển trên lĩnh vực nuôi gà đồi theo hướng VietGAP, trong đó ưu tiên các công ty chế biến thực phẩm đông lạnh, bao tiêu sản phẩm cho người dân; đồng thời xây dựng các điểm thu mua, tăng cường quản lý, gắn trách nhiệm duy trì, bảo vệ thương hiệu đến từng hộ chăn nuôi…

Thái Dương

Tiêu Chuẩn Gà Tre Tân Châu

1. Mô tả Là một giống gà tre nhỏ, có nguồn gốc từ vùng rừng núi An Giang. Ban đầu được những cư dân mới vùng này nói chung và dân Tân Châu nói riêng thuần dưỡng, Tân Châu là địa phương phát triển giống gà kiểng này trước tiên. Sau đó được giới chơi gà kiểng Long Xuyên cùng nuôi dưỡng, lai tạo và phát triển để có được giống gà tre khá thuần chủng hiện nay. Do có nhiều đặc điểm đặc thù so với các giống gà tre khác, nên giới gà kiểng An Giang đã đặt thêm địa danh Tân Châu vào để phân biệt với các giống gà tre nhỏ vùng khác.

Nhìn thoáng qua gà tre Tân Châu có dáng hình nhỏ nhắn, dễ thương, mạnh khỏe; bộ lông dày, bóng; đầu, thân, đuôi thon dài, lông mã dài, tiếng gáy không vang, hơi gáy ngắn .

Con trống trưởng thành trọng lượng không quá 900 g, con mái không quá 600 g.

Tính năng chủ yếu dùng làm gà kiểng.

2. Tính khí Thân thiện với người, con trống có tính phân chia vùng lãnh thổ, không hung hãn, nhưng có tính hiếu chiến khi giáp mặt nhau.

3. Đầu Đầu nhỏ gọn, có 2 loại mồng là mồng dâu và mồng trích, mắt sáng lanh lợi, thường có râu, mỏ ngắn, hai tích nhỏ chiều dài tích không quá 1.5cm.

4. Đuôi Lông đuôi nhiều, phân bố thành nhiều lớp, tối thiểu là 3 lớp, đuôi dài, bản đuôi khá rộng, cong xuống mặt đất (phụng vỹ), hướng đuôi từ phao câu lệch không quá 45 độ so với phương ngang, lông đuôi cao không vượt quá đầu.

5. Thân Thân tương đối ngắn, ngực rộng, thịt hồng hào, hướng từ ức xuống chân dốc tối đa 45 độ so với phương ngang.

Cánh có khuynh hướng khuỳnh ra, dài ko quá thân, cánh che ít nhất 2/3 cẳng chân tính từ trên xuống (ở trạng thái bình thường đối với gà trưởng thành).

6. Chân Chân hơi vuông, vảy đều đặn, có độ cao vừa , chiều dài cẳng chân ngắn hơn chiều dài xương đùi (tỷ lệ hai xương cẳng chân và xương đùi từ 6:10 – 8:10 .không chấp nhận những con dưới tỷ lệ này, hoặc trên). Có 4 ngón chân , 3 ngón phía trước dài ,và 1 ngón phía sau ngắn tạo thành thế đứng vững chắc. Chấp nhận tất cả màu chân.

7. Lông Mịn màng, bóng, che kín toàn thân, chia làm 3 phần :

* Lông thân: mịn, dày, ôm sát thân

* Lông cổ: dày, mềm, mịn, phủ từ ót đến một phần của lưng.

* Lông mã lưng (“mã dìn”): mềm, mịn, suông, dài gần chạm đất , hoặc chạm tới đất.

8. Màu lông Chấp nhận tất cả các màu lông. Thông thường nhất là các màu: chuối, điều, khét, nhạn.

9. Khuyết điểm * Thân quá ngắn, có khuynh hướng cong hướng lên.

* Đuôi cao trên 45 độ so với mặt đất.

* Bộ lông trên thân ít , lông cổ ít, lông mã ngắn.

* Chân ngắn dưới tỷ lệ 6:10 so với xương đùi.

* Chân có nhiều hơn 4 ngón, cẳng chân quá nhỏ.

* Đuôi xòe rộng hơn chiều ngang thân (kể cả cánh).

* Mồng lệch.

* Mắt lồi.

* Chân có lông.

Ghi chú: Bản tiêu chuẩn trên chỉ mô tả con trống. Gà mái Tân Châu ngoài các đặc tính cơ bản của loài gà mái; chân, đầu, mỏ giống gà trống, còn các đặc điểm đặc thù sau:

* Lông: màu lông ít đa dạng hơn gà trống, lông mềm mại, lông mã (“mã dìn”) không phát triển.

* Mồng, Tích gà: ít phát triển.

* Đuôi: hơi cong lên (không phụng vỹ), lệch với phương ngang từ 20-30 độ, ít lớp hơn gà trống, thường 2 lớp đuôi, đuôi ngắn hơn gà trống.

* Thân tròn trĩnh, hướng từ ức tới chân lệch không quá 30 độ so với phương ngang. Cánh ôm sát thân.

* Khả năng sinh đẻ: mỗi lứa đẻ trung bình từ 8-10 trứng, nuôi con giỏi.

Khuyết điểm gà mái: * Lông kém bóng mượt, lông xù không ôm sát thân. * Con mái đẻ không đều (hơn 3 ngày 1 trứng), ấp và nuôi con không tốt. * Đuôi xụ. * Chân quá ngắn , cánh chạm đất. * Vẩy chân sần sùi

Bản tiêu chuẩn này được thành lập trên cơ sở tư vấn của các lão nghệ nhân gà kiểng vùng Long Xuyên, Tân Châu và Phú Tân.

Tân Kỳ, Chú Trọng Sản Xuất Vac Hữu Cơ

Vài năm trở lại đây, HLV huyện Tân Kỳ (Nghệ An) đã hướng dẫn hội viên, nông dân sản xuất nông sản sạch, hạn chế tối đa sử dụng phân và thuốc trừ sâu hóa học; tăng cường sản xuất phân hữu cơ vi sinh; sử dụng thức ăn hữu cơ để chăn nuôi gia súc, gia cầm và xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm. Nhờ đó, sản xuất VAC ở Tân Kỳ thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.

Ông Tô Anh Phương, Giám đốc Công ty TNHH Kiều Phương, đi thăm và kiểm tra đàn bò.

Làm giàu bằng “mọi cách”

Anh Lê Hồng Long, sinh năm 1989, xóm 2, xã Tân Hưng, cho biết, sau khi tốt nghiệp Đại học Công nghệ Thông tin, thấy công việc không thuận lợi, anh quyết định về quê, vì ở đó gia đình có 2,6ha đồi rừng, có thể phát triển kinh tế bền vững.

Buổi đầu, khi sắp xếp lại trang trai, anh nhận thấy, ở thành phố cũng như ở thôn quê, người dân dần quay lưng với gà công nghiệp, vậy là anh mua 1,3 vạn con gà Ri giống ở Trung tâm Giống gia cầm Thụy Phương (Hà Nội) về nuôi.

Giai đoạn đầu, khi gà mới được vài ngày tuổi, cho ăn cám công nghiệp, sau đó cho ăn ngô bản địa, thóc, rau xanh trộn cám gạo và cơ bản là thả trên vườn đồi, nên gà đạt chất lượng thịt cao. Sang năm thứ 2, cho gà Ri lai tạo với gà chọi địa phương, để vừa đảm bảo độ ngon của gà Ri, vừa có năng suất của gà chọi. Vì vậy, bình quân gà trống nặng 2,5kg, gà mái 2,0kg, với giá bán tại vườn 70.000 đồng/kg. Đầu ra đã ký hợp đồng với các hợp tác xã trên địa bàn, ngày xuất nhiều nhất lên tới 1-2 tấn gà, còn lại, trung bình 3-5 tạ/ngày; mỗi năm 2-3 lứa, mỗi lứa 1 vạn con, thu lãi 200-300 triệu đồng/năm.

Ngoài gà, khu vườn đồi của Long còn trồng cây lâm nghiệp như: xoan ta, keo, tràm 5-10 năm mới cho thu hoạch.

“Hiện, Tân Kỳ còn có 3-4 trang trại chăn nuôi gà ta sạch của những thanh niên năng động, đã tốt nghiệp các trường đại học chính quy ở Hà Nội”, Long chia sẻ.

Cùng hướng tới sản xuất nông nghiệp sạch như Long, anh Đậu Tiến Sỹ, xã Tân An, cho biết, anh có 3ha đất đồi gò bạc màu, trồng cây ăn quả, cây lâm nghiệp và chăn nuôi bò. Để cải tạo đất, anh tham gia phong trào sản xuất phân hữu cơ vi sinh (HCVS) từ phân chuồng và các phụ phẩm nông nghiệp do Hội Làm vườn huyện phát động.

Theo đó, gia đình anh Sỹ đã duy trì việc sản xuất phân HCVS từ năm 2009 đến nay. Với 6 con bò, cùng các phụ phẩm nông nghiệp như rơm, rạ, thân cây ngô, lạc, đậu, mỗi năm gia đình anh sản xuất khoảng 30 tấn phân hữu cơ. Cách ủ phân khá đơn giản, cây tươi thì cắt ngắn, cây khô thì cắt ngắn rồi ngâm nước vôi khoảng 20 ngày, sau đó trộn đều với men vi sinh, rỉ mật mía (có rất nhiều ở Tân Kỳ), và tỷ lệ đạm, kali vừa đủ. Thời gian ủ 30-45 ngày thì sử dụng.

Lượng phân HCVS do anh Sỹ ủ đủ bón cho 1ha cây ăn quả, bao gồm: cam Vinh, bưởi, quýt; 1 mẫu ruộng và 1ha cao su của gia đình. Ngoài ra, anh còn trồng xen bơ, táo, ổi với cao su nên lượng phân HCVS được rải đều trong vườn. Nếu phải mua phân bón ngoài thị trường tiêu tốn gần 90 triệu đồng, tự sản xuất chỉ khoảng 20 triệu đồng. Dùng phân HCVS không những năng suất, chất lượng cây trồng tăng, mà còn tiết kiệm chi phí, đặc biệt là góp phần cải tạo đất gò đồi.

Liên kết chuỗi chăn nuôi bò thịt

Ngoài trồng trọt và chăn nuôi gia cầm, vùng bán sơn địa Tân Kỳ còn thích hợp với chăn nuôi bò thịt, bò sữa, đây là một trong những thế mạnh đang được địa phương tích cực khai thác.

Theo bà Lê Thị Lương (xã Nghĩa Hợp), bà nuôi 33 con bò sữa từ năm 2014 đến nay, được Công ty CP Sữa Việt Nam (Vinamilk) thu mua, giá sữa ổn định 14.000 đồng/kg loại 1, thấp nhất 7.000 đồng/kg, nếu chất lượng thấp hơn sẽ phải dừng hợp đồng để khắc phục, tuy nhiên, gia đình bà hiếm khi gặp trường hợp như vậy. Do có diện tích chăn thả rộng và các phụ phẩm làm thức ăn phong phú nên bò sữa đã giúp bà có thu nhập khoảng 300 triệu đồng/năm. Ngoài lao động chính là 2 vợ chồng, bà Lương còn phải thuê thêm 1 lao động, trả thù lao quanh năm với mức 4,5 triệu đồng/tháng.

Song, do quy mô nhỏ, cả xã chỉ có 5 hộ nuôi bò sữa như bà Lương, các gia đình phải đưa sữa đến điểm thu mua tại huyện Nghĩa Đàn, cách nhà 23km, chi phí khá tốn kém. Mặt khác, Tân Kỳ đã có điểm liên kết chăn nuôi bò thịt vỗ béo của Công ty TNHH Kiều Phương, nên bà và các hộ nuôi bò sữa đang chuyển sang nuôi bò thịt.

Từ đầu năm 2018 đến nay, bà Lương đầu tư thêm 34 con bò thịt (giống Úc), mua tại Công ty Kiều Phương. Trong đó có 10 con 4 tháng tuổi, giá 12,6 triệu đồng/con; 24 con gần 1 năm tuổi, 17,6 triệu đồng/con, con số này sẽ còn tăng, do bà đang giảm dần đàn bò sữa. Đầu ra của bò thịt sẽ do Kiều Phương đảm nhận, thậm chí, công ty còn ứng trước 60 triệu đồng cho gia đình bà Lương.

Được biết, ngoài hộ bà Lương, còn có hộ ông Nguyễn Văn Ngoạn (Nghĩa Đồng), ông Hường (Tân Phú), ông Khả (Nghĩa Hoàn), ông Thuận (Nghĩa Bình) cũng tham gia mô hình liên kết với Kiều Phương. Do hài hòa lợi ích, trong năm 2019, số hộ liên kết chăn nuôi bò thịt với doanh nghiệp sẽ còn tăng.

Ông Tô Anh Phương, Giám đốc Công ty TNHH Kiều Phương, cho biết: “Công ty hiện có gần 700 con bò thịt, bò sinh sản giống Úc, gây dựng cách đây 4 năm. Thị trường tiêu thụ là TP. Vinh và các địa phương phía Bắc như Hà Nội, Bắc Giang; khách buôn về tận địa phương mua hàng. Hiện, đã có trên 200 con bò thịt xuất chuồng, trọng lượng 5 – 5,5 tạ/con, với giá bình quân 72.000 đồng/kg, khi cao điểm lên tới 74.000 – 76,000 đồng/kg, trước mắt cung chưa đủ cầu. Thời gian tới, công ty sẽ kết hợp với nhiều gia đình tại địa phương cùng phát triển chăn nuôi bò thịt”.

Ngoài bò thịt, năm 2018, xã Tân Phú còn phát triển 15 mô hình trồng cam hữu cơ, với diện tích 38ha, toàn bộ sản phẩm được doanh nghiệp bao tiêu.

Xây dựng Hội ngày càng vững mạnh

Theo ông Trần Tử Bá, Chủ tịch Hội Làm vườn Tân Kỳ: “Phong trào ủ phân vi sinh để cải tạo đất và sản xuất sạch ở Tân Kỳ đã được phổ biến gần 1 thập kỷ qua, với sự hỗ trợ của tỉnh Nghệ An. Hiện, đã sản xuất được khoảng 250.000-300.000 tấn, với hàng ngàn hộ dân tham gia, hộ ít nhất vài tấn, nhiều nhất 30-35 tấn/năm. Nhiều địa phương như: Tân Phú, Tiên Kỳ, Kỳ Sơn, Nghĩa Hành đã biết tranh thủ sự hỗ trợ của tỉnh để sản xuất phân HCVS. Ngoài ra, đa số hộ chăn nuôi gia cầm đều làm đệm lót sinh học, xử lý đất, xử lý môi trường, ủ chua thức ăn cho gia súc. Các phong trào trên đã đem lại lợi ích thiết thực, nên thu hút nhiều nông dân tham gia Hội, từ chỗ chỉ có 4.646 hội viên năm 2017, nay tăng lên 5.216 hội viên”.

Đặc biệt, sau Đại hội lần thứ VI, nhiệm kỳ 2012-2017, do sáp nhập Hội Phân bón, Hội Giống cây trồng vào Hội Làm vườn, nên số lượng hội viên tuy không tăng nhiều, nhưng chất lượng cán bộ được chọn lọc, tinh gọn. Nhất là hội viên từ huyện đến xóm, bản được củng cố và nâng cao về chất, đây là điều kiện thuận lợi để Hội hoạt động có hiệu quả hơn.

Mặt khác, tổ chức Hội tiếp tục được củng cố, 95% số Chủ tịch HLV xã là cán bộ chủ chốt của Hội Nông dân; 100% chi hội trưởng xóm do chi hội trưởng nông dân kiêm khuyến nông thôn, bản đảm nhận. Phương thức chỉ đạo linh hoạt hơn, do có sự gắn kết về mục tiêu và nhiệm vụ chính là đưa khoa học công nghệ đến với nông dân, để phát huy hiệu quả sản xuất VAC gia đình, VAC trang trại và VAC sinh thái.

Theo ông Bá, điểm nổi bật nhất về xây dựng tổ chức Hội là, ý thức của hội viên về vai trò, vị trí HLV trong mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương được xác định. Thứ hai là vai trò của kinh tế VAC rõ nét hơn trong Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới, nhất là tiêu chí thu nhập bình quân đầu người.

Năm 2018, Hội tiếp tục thực hiện 3 chương trình ứng dụng KHCN của tỉnh, đã vận động sản xuất 2.262 tấn phân HCVS, làm 6.556m2 đệm lót chăn nuôi gà, lợn; xử lý tồn dư thuốc BVTV trong đất trồng rau, quả 2.500.000m2 với tổng số tiền hỗ trợ gần 400 triệu đồng. Từ những kết quả đó đã đưa năng suất cây trồng tăng 15-18%; môi trường đất, nước, chuồng trại được bảo đảm, hạn chế dịch bệnh trên vật nuôi, chất lượng sản phẩm cũng được nâng lên.

Đặc biệt, nhờ sự hướng dẫn của Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Tân Kỳ, hội viên đã biết dùng men hoạt tính để ủ chua thức ăn cho trâu, bò, vừa giữ được thức ăn xanh, vừa đảm bảo thức ăn trong kỳ giáp hạt, nắng hạn, mưa lũ kéo dài. Hoặc sử dụng EM để ủ phân chuồng mau hoai mục, xử lý hôi thối, xử lý nấm bệnh thường gặp trên rau màu…

Hoạt động Hội của Tân Kỳ phát triển mạnh do vừa xây dựng tổ chức, vừa sản xuất VAC, song hai mặt hoạt động này diễn ra chưa đồng đều, chưa cân đối. Mới có trên 50% số xã đảm bảo được 2 vấn đề trên, đó là Tân Hợp, Tiên Kỳ, Giai Xuân, Tân Phú, Nghĩa Hoàn, Tân long, Tân An, Nghĩa Hợp, Nghĩa Hành, Nghĩa Đồng, Tân Hương và Kỳ Sơn. Số còn lại hoạt động chưa mạnh, vai trò, vị trí Hội chưa thực sự rõ nét.

Vì vậy, thời gian tới, HLV huyện Tân Kỳ sẽ đẩy mạnh hơn nữa công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, để đạt mục tiêu VAC hữu cơ, VAC sạch, VAC công nghệ cao. Tiếp tục thực hiện các chương trình KHCN được tỉnh Nghệ An hỗ trợ, ít nhất là 80% số xã thực hiện, để sau năm 2020, khi ngân sách hỗ trợ không còn, hội viên vẫn tiếp tục thực hiện tốt.

Mặt khác, Hội sẽ mở rộng liên kết với doanh nghiệp để sản xuất tập trung các mặt hàng đang có thị trường tiêu thụ: Ớt cay, ngô ngọt, đậu tương, bí đỏ, sả và cỏ linh lăng (còn gọi là cỏ ba lá thập tự, họ Đậu). Tiếp tục vận động liên kết chăn nuôi bò thịt, vận động thành lập HTX chăn nuôi trên 50% số xã.

Bạn đang xem bài viết Xây Dựng Htx Sản Xuất Và Tiêu Thụ Gà Tre Tân Yên trên website Ruybangxanh.org. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!